Quan Âm Thị Kính: Phân tích sự tích, lịch sử, nguồn gốc, ý nghĩa

Quan Âm Thị Kính có sự tích thế nào? Nguồn gốc ý nghĩa từ đâu? Đây là một trong những tác phẩm được lưu truyền trong dân gian VN từ lâu qua nghệ thuật hát chèo, cải lương, kịch, truyện thơ và truyện văn xuôi.

Vậy sau đây hãy cùng Đồ Thờ Hưng Vũ phân tích chi tiết về Quan Âm Thị Kính nhé!

Giới thiệu Quan Âm Thị Kính

Quan Âm Thị Kính là tên thông tục một sử thi Hán Nôm ba hồi xuất hiện hậu kỳ trung đại, có sức ảnh hưởng nhất định tới nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam hiện đại. Đây cũng là tác phẩm có lượng tục bản và chuyển thể chỉ lớn sau Truyện Kiều.

Theo từ điển Phật Học Việt Nam,câu chuyện sự tích Quan Âm Thị Kính xuất phát từ truyện thơ Việt Nam, kể về nỗi hàm oan giết chồng của Thị Kính.

Về sau nàng cải trang thành nam giới xuất gia học đạo, song lại bị vu oan phá giới phạm trai nhưng nhờ vào công hạnh từ bi nhẫn nhục nên về sau nỗi oan ức được hoá giải, trở thành Bồ Tát Quan Thế âm.

Quan Âm Thị Kính

Sự tích Quan Âm Thị Kính

Ngày xửa ngày xưa, có một người trải đã nhiều kiếp, kiếp nào từ bé đến lớn cũng giữ mình đức hạnh và thành bậc chân tu Cứ luân hồi chuyển kiếp như vậy liên tiếp đến 9 lần nhưng chưa kiếp nào được thành Phật. Đến kiếp thứ 10, Đức Thích Ca muốn thử lòng, bắt vào đầu thai làm con gái một nhà họ Mãng ở nước Cao Ly.

Họ Mãng đặt tên nàng là Thị Kính. Lớn lên, nàng tài sắc nết na lại hiếu thảo hết lòng. Khi đến tuổi lấy chồng, nàng được bố mẹ gả cho thư sinh Sùng Thiện Sĩ. Sùng Thiện Sĩ rất đẹp trai, chăm học. Hai vợ chồng thật là trai tài gái sắc ăn ở với nhau rất mực kính aí và hòa thuận. Một đêm, Thiện Sĩ ngồi đọc sách, Thị Kính ngồi may bên cạnh.

Thiện Sĩ bỗng thấy mệt mỏi, bèn ngả lưng xuống giường, kê đầu lên gối vợ truyện trò rồi thiếp ngủ. Thị Kính thương chồng học mệt nên lặng yên cho chồng ngủ. Nàng ngắm nhìn khuôn mặt tuấn tú của chồng, bỗng nhận ra ở cằm chồng có một sợi râu mọc ngược. Sẵn con dao nhíp trong thúng khảo đựng đồ may

  • Thị Kính liền cầm lên kề vào cằm chồng định tỉa sợi râu, bỗng Thiện Sĩ chợt tỉnh, nhìn thấy vợ cầm dao kề vào cổ mình, nghi vợ chủ trương làm hại, liền vùng dậy nắm lấy cổ tay Thị Kính la lên: “Nàng định cầm dao giết tôi lúc tôi đang ngủ ư?”.
  • Thị Kính đáp: “Không phải đâụ thấy chàng có sợi râu mọc ngược, thiếp định tỉa nó đi, kẻo trông xấu xí lắm!”.

Nhưng trong cơn nghi ngờ và hoảng hốt, chồng nhất định không tin. Giữa lúc đó, ông bà họ Sùng nghe tiếng cãi nhau, vội lại hỏi nguyên do. Nghe con trai kể, ông bà tin ngay, khăng khăng đổ tội cho Thị Kính toan giết chồng rồi lập tức cho mời ông bà họ Mãng sang trách móc và trả lại con.

Thị Kính không biết giải tỏ sao được nỗi lòng oan khổ của mình, nàng cắn răng chịu tủi nhục từ giã nhà họ Sùng để về nhà cha mẹ. Về ở với cha mẹ, Thị Kính lúc nào cũng sầu phiền. Nỗi oan khổ chẳng còn biết cùng ai thổ lộ. Nàng bèn quyết tâm đi tu để trước là báo đáp ân sâu của cha mẹ, sau là tẩy rửa nỗi oan khiên.

Nghĩ rằng, nếu trình thưa với cha mẹ ý định của mình thì cha mẹ không cho đi nên đang đêm, nàng cải trang thành nam tử và trốn khỏi nhà với tấm chân thành của người tìm chân lý. Lại một lần nữa, Thị Kính bị mang tiếng đồn là bỏ nhà theo trai trong khi thật sự nàng tìm đến chùa Vân Tự tu hành.

Sư cụ chùa Vân Tự không biết là gái bèn nhận cho làm tiểu, đặt tên là Kính Tâm. Từ đó Kính Tâm nương náu cửa thiền, lòng vui với đạo nên khuây khỏa được sầu phiền. Tu hành chưa được bao lâu thì một tai vạ lại đến với Kính Tâm.

Trong làng có Thị Mầu, con gái của một phú ông, đi lễ chùa, thấy Kính Tâm thì đem lòng yêu trộm. Đã có lần Thị Mầu nói rõ lòng mình với Kính Tâm nhưng thị vô cùng thất vọng vì Kính Tâm vẫn cứ thản nhiên. Càng ngày, Thị Mầu càng say mê. Quen thói trăng hoa, Thị Mầu bèn tư thông với một người đầy tớ trong nhà, không ngờ thị mang thai và bị làng phạt vạ. Thị Mầu bèn đổ riệt cho tiểu Kính Tâm.

Vì thế tiểu Kính Tâm bị làng đòi đến tra khảo. Nàng không biết biện bạch ra sao để gỡ mối oan này nên đành cam chịu sự đánh đập tàn nhẫn. Sư cụ thấy tiểu bị đánh đòn đau, thương tình, kêu xin với làng nộp khoán. Vì sợ ô danh chốn thiền môn nên dù thương xót Kính Tâm, sư cụ cũng phải để Kính Tâm ra ở mái Tam quan chứ không được ở trong chùa nữa.

Đủ ngày tháng, Thị Màu sanh một đứa con trai. Phú ông bắt thị đem đứa bé trả cho cha là Kính Tâm. Kính Tâm đang tụng kinh, thấy tiếng trẻ khóc, nhìn ra thì thấy Thị Mầu đem con bỏ đó rồi đi. Động lòng từ bi, nàng ra ẵm lấy đứa bé và chăm lo nuôi nấng hết lòng.

Ngày ngày nàng phải bế nó đi xin sữa ở đầu làng cuối xóm chịu bao nhiêu tiếng cười chê. Sau ba năm, đứa bé đã khôn lớn, vẻ mặt rất khôi ngô, tính nết ngoan ngoãn giống hệt cha nuôi thì cũng là lúc Kính Tâm đạt cái chí của mình sau những ngày đầy oan khổ. Bà chỉ bị yếu qua loa rồi chết.

Trước khi nhắm mắt, Kính Tâm dặn dò đứa bé, bà lại viết một phong thư giao cho nó cầm để lại cho cha mẹ. Đứa bé đang than khóc bên xác cha nuôi thật là bi thảm, chợt nhớ lời cha dặn, vội lên chùa trên báo cho sư Cụ biết. Sư vãi được cụ sai ra khâm liệm thi hài mới hay Kính Tâm là đàn bà.

Tin này tung ra, cả làng đổ đến chùa đông như hội. Nỗi oan tình của bà được tỏ và khi lá thư của bà về đến quê thì ai nấy lại đều biết bà không phải là gái giết chồng. Thiện Sĩ vội theo ông bà họ Mãng tới chùa Vân Tự làm lễ ma chay. Ai nấy đều nhận thấy rằng sư chịu đựng và nhẫn nhục của nàng từ bấy đến nay quả là cùng cực. Sư cụ làm lễ giải oan. Làng bắt phú ông phải chi phí tang ma và Thị Mầu phải tang phục đưa chồng.

Giữa lúc cử hành đàn chay, một đám mây ngũ sắc, giữa trời từ từ hạ xuống trước đàn lễ. Đức Thích Ca Mâu Ni hiện ra, Ngài nhận thấy Kính Tâm là người tu hành đắc đạo nên cho bà làm Phật Quan Âm và cho toàn gia bà được siêu thăng, linh hồn được về gặp nhau nơi cực lạc.

Riêng Thiện Sĩ, thấy rõ nông nỗi vợ, sau khi chôn cất Kính Tâm xong, chàng xin ở lại chùa tu đến hết đời.

Quan Âm Thị Kính

Đọc đầy đủ tác phẩm của Thiền Sư Nhất Hạnh: Tại Đây

Bài học từ sự tích Quan Âm thị Kính

Thông qua Sự Tích Quan Âm thị Kính người ta tôn vinh Thị Kính tức Kính Tâm đã thể hiện tấm lòng từ bi và đức tính nhẫn nhục. Rằng Thị Kính đã cảm nhận được lời Phật dạy rằng: “Hận thù diệt hận thù đời nay không thể có. Từ bi diệt hận thù là định luật nghìn thu”

Mặc dù bị tới hai nỗi oan ức rồi bị tra tấn đánh đập, nhưng Kính Tâm vẫn một lòng nhẫn chịu, không hề thanh minh một tiếng rằng tôi bị oan, rằng tôi là phận gái Kính Tâm biết, nếu mình tiết lộ về thân phận thì chắc chắn hội đồng làng sẽ ngưng tra khảo và được giải oan ngay.

Song, Kính Tâm đủ sức nhẫn chịu một cách bình thản không nổi niệm sân giận những nghịch cảnh, những cái mà người đời thường gọi là những điều bất công và những nỗi oan ức.

Do đó trong truyện thơ Quan Âm Thị Kính mới có hai câu:

Chữ rằng: nhẫn nhục nhiệm hoà,

Nhẫn điều khó nhẫn mới là chân tu”

Hay Ca dao Việt Nam có câu:

“Xem trong cõi nước Nam ta

Chùa Vân có đức Phật Bà Quan Âm”

 

Như vậy, có thể nói rằng Quan Âm Thị Kính và Quan Thế Âm Bồ Tát đứng về mặt thân thế lịch sử ghi nhận là khác nhau.

Song xét theo công hạnh tu hành thì Quan Âm Thị Kính là hoá thân của Bồ tát Quan Âm. Bởi theo danh từ Phật học thì Bồ tát hay còn gọi là “giác hữu tình” là người làm lợi ích cho tha nhân, cho xã hội, những người như thế đều được gọi là Bồ-tát.

Quan Âm Thị Kính

Câu hỏi thường gặp

Sau đây là một vài câu hỏi thường gặp của bạn đọc về chủ đề Quan Âm Thị Kính như:

Quan Âm Thị Kính là truyện thơ gì?

Quan Âm Thị Kính là truyện thơ khuyết danh.

Tác phẩm được lưu truyền theo nhiều hình thức khác nhau và đã trở nên quen thuộc với đông đảo quần chúng nhân dân Việt Nam. Tác phẩm mang màu sắc Phật giáo, xuất phát từ một sự tích mà có tài liệu cho rằng có nguồn gốc Cao Ly, theo đó thì ngài Quan Thế Âm Bồ-tát đã đầu thai xuống trần tu hành được chín kiếp, đến kiếp thứ mười, ngài tiếp tục giáng sanh vào nhà họ Mãng ở nước Cao Ly

Quan Âm Thị Kính có thật không?

Quan Âm Thị Kính được xem là sự kiện có thật và liên quan tới ứng thân của Quan Âm trong kiếp thứ 10. Tại Kiếp này Quan Âm Bồ Tát giáng thế về làm con gái của một cặp vợ chồng nhà họ Sùng. Nhà họ Sùng này mặc dù khá giả nhưng mãi vẫn chưa có con

Phân tích truyện thơ Quan Âm Thị Kính

Thân phận người phụ nữ luôn là đề tài được các nhà văn, nhà thơ hướng tới cho những tác phẩm của mình, người phụ nữ được nhắc đến với số phận không mấy tốt đẹp, phải chịu đựng nhiều áp bức và không được đấu tranh cho quyền lợi của bản thân. Đoạn trích “Nỗi oan hại chồng” là minh chứng cho điều đó, đoạn trích kể về nhân vật Thị Kính phải mang nỗi oan giết chồng gây nên nhiều đau khổ và hiểu lầm trong chính gia đình của mình.

Hiện lên trước mắt người đọc là hình ảnh Thị Kính đoan trang, phúc hậu, nết na, luôn chăm lo cho gia đình của mình, một con người chịu thương chịu khó biết cách gây dựng tổ ấm của gia đình. Một hình ảnh một con người với những nét đẹp như thế thường gắn liền với những nốt bất hạnh khi sống trong xã hội xưa mục nát. Rồi việc gì đến cũng đến, nỗi oan mà Thị Kính vướng phải chính là từ sợi râu mọc ngược của chồng mình, từ việc râu mọc ngược mang ý nghĩa xấu, suy nghĩ cho chồng, cho gia đình mà định cắt sợi râu đó đi, ai ngờ hành động đó của cô khiến chồng cô và cả gia đình, đặc biệt là Sùng bà nghi ngờ cô muốn hại chồng mình. Trong xã hội xưa thì đó là hành động không thể tha thứ, một trong những tội lớn nhất mà xã hội đề ra.

Đối với Thị Kính không thể thanh minh hay giải oan cho bản thân mình bởi lẽ đối với Sùng bà thì cô như là cái gai trong mắt, Sùng bà đã có ác cảm với cô từ rất lâu thế nên nay có cơ hội này Sùng bà có được cái cớ để nhục mạ cô, có những lúc Sùng ông đã lắng nghe những lời nói của cô nhưng cũng chỉ dừng lại ở mức lắng nghe chứ không dám dùng hành động để căn ngăn, hay dùng lời nói để giải thích giúp cô bởi chính Sùng ông cũng rất sợ Sùng bà. Xã hội xưa là một xã hội “Trọng nam khinh nữ” nhưng đối với Sùng ông thì lại khác, ông không hề có quyền hành gì ở trong nhà cả, tất cả mọi thứ đều dưới sự chỉ đạo của Sùng bà. Cùng một gia đình như thế nhưng đối với Thị Kính lại đối lập hoàn toàn, cô chịu sự chi phối của chồng, của gia đình mà không hề có một chút tiếng nói nào trong gia đình, điều này đã làm nổi lên mâu thuẫn giữa mẹ chồng nàng dâu gay gắt vô cùng, hơn thế nữa là sự mâu thuẫn giữa những giai cấp trong xã hội, nhiều khi thân phận nam hay nữ không mấy quyết định đến số phận của họ, mà phần lớn là giá trị mà con người có được trong xã hội đó. Sự phân cấp giai cấp rõ nét được thể hiện, Sùng bà đại diện cho giai cấp thống trị còn Thị Kính đại diện cho giai cấp bị trị, cùng là thân phận người phụ nữ nhưng mỗi người sống với một vai trò khác nhau, sự áp bức, khinh miệt mà Sùng bà dành cho Thị Kính là minh chứng rõ nhất cho điều đó.

Đối với Thị Kính nỗi oan mà khiến cô đau đớn nhất không phải là nỗi oan giết chồng, cũng chẳng phải những nỗi oan mà Sùng bà làm nhục cô mà chính là nỗi oan từ sự thờ ơ lạnh nhạt của chồng, nỗi oan từ chính người mà cô thương yêu, lo lắng cho nhất, người mà cô dành cả cuộc đời của mình để nương tựa, dựa dẫm thì chính là người đem đến sự tủi nhục, oan uất cho cô. Những lời la mắng cay nghiệt của mẹ chồng, cùng với những đòn roi mà mẹ chồng đem lại không đau bằng thái độ mà người chồng mình dành cho mình, cuối cùng cái cô nhận được là tan vỡ hạnh phúc gia đình, bị đuổi ra khỏi nhà với nỗi oan cả đời không rửa sạch được.

Đoạn trích đã khắc họa thành công hình ảnh người phụ nữ trong xã hội xưa, không được sống là chính mình, không có tiếng nói riêng, không được đem lại hạnh phúc cho bản thân, sống dựa vào người khác, mang những nỗi oan, nỗi ấm ức không thể thanh minh do chính xã hội đem lại.

Trên đây là một số thông tin về Quan Âm thị Kính mà Đồ Thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm tác phẩm này

Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các thông tin khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tôi nhé!

Có thể bạn quan tâm:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *