Đền Đô ở đâu? Đền Đô thờ ai và cách đến Đền Đô như thế nào?

Đền Đô, còn được gọi là Cổ Pháp điện hay Đền Ly Bát Đế, là một quần thể kiến trúc tín ngưỡng thờ tám vị vua đầu tiên của nhà Ly. Đền Đô đã được công nhận là di tích lịch sử – văn hóa và là di tích quốc gia đặc biệt. Nó nằm ở phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Đền Đô có kiến trúc đẹp và được xây dựng công phu, đắp vẽ chạm khắc tinh xảo. Hôm nay hãy cùng mình tìm hiểu về ngôi đền này nhé!

Đền Đô ở đâu?

Đền Đô Hạ hay còn gọi là Cổ Pháp Điện hay đền thờ Lý Bát Đế, được xây dựng từ rất sớm vào thế kỷ XI trên khu đất phía đông nam hương Cổ Pháp thuộc địa phận làng Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh ngày nay. Theo lời kể lại, xưa kia trước cổng chùa có rừng Báng và dòng Tiêu Tương chảy qua. Vì vậy, nơi đây hội tụ các nguyên khí, có thể là 8 đầu rồng, là nơi thích hợp để người dân hương khói trong tương lai.

Khi vua Lý Công Uẩn lên ngôi về thăm quê, nhân dân làng Đình Bảng đã xây dựng một ngôi đình lớn để đón vua. Khi vua mất, vua Lý Thái Tông nối ngôi, cho sửa sang làm nơi thờ vua cha và cũng là nơi thờ các vua Lý sau khi mất.

Ngày nay, ngôi chùa tọa lạc trên diện tích hơn 31.000m2, là kết quả của quá trình tôn tạo, mở rộng sau bao thăng trầm của lịch sử và sự tàn phá của chiến tranh. Dù đã bị phá hủy gần như hoàn toàn nhưng đền Đô vẫn giữ được hình dáng, kiến trúc ban đầu, là công trình kết hợp hài hòa giữa phong cách cung đình sang trọng và nghệ thuật dân gian gần gũi.

Địa chỉ đền Đô Bắc Ninh: Đường Lý Thái Tổ, phường Tân Hồng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.

Đền đô

Đền Đô thờ ai?

Theo sử sách, tháng 2 năm 1010, sau khi lên ngôi, Lý Công Uẩn về quê Đình Bảng, cưỡi thuyền rồng đi thăm các trưởng lão và viếng lăng Thái Tổ. Dân làng dựng một ngôi đình lớn để đón vua. Sau khi ông mất, con là Lý Thái Tông lên ngôi.

Như vậy đền Đô được biết đến với tên gọi quen thuộc là ngôi đền của các vị vua triều Lý.

Trong một dịp về quê Đình Bảng mừng giỗ cha, ông đã sai người lập Đền Đô làm nơi thờ cha trên nền đình cũ để làm nơi đón khi ông trở về. Và đây cũng là nơi thờ các vị vua nhà Lý sau này. Ngày 3 tháng 3 năm 1030, ngôi chùa được khởi công xây dựng.

Sau này chùa được trùng tu nhiều lần qua các triều đại Lý, Trần, Lê. Lần trùng tu, mở rộng lớn nhất là vào năm thứ 3 đời vua Lê Kính Tông, tức năm 1602, với quy mô 21 hạng mục công trình và bia ký ghi công đức các vua nhà Lý.

Năm 1952, thực dân Pháp sau khi xâm lược nước ta đã ném bom phá hủy hoàn toàn chùa. Năm 1989, ngôi chùa được khởi công xây dựng lại theo kiến trúc ban đầu. Đây là kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch sử đã dày công tìm hiểu những di vật, tư liệu còn sót lại của ngôi chùa. Về cơ bản, quần thể di tích đền Đô hiện nay vẫn giống với kiến trúc xưa.

Lịch sử hình thành Đền Đô

Theo sử sách ghi chép lại, tháng 2 năm 1010, sau khi đăng quang lên ngôi vua, Lý Công Uẩn đã trở lại thăm quê hương Đình Bảng, tại đây ông đã dừng thuyền rồng để đi thăm các bậc kỳ lão, yết lăng Thái Hậu. Dân làng đã xây dựng một ngôi đình lớn để làm nơi nghênh tiếp nhà vua. Sau khi ông băng hà, con trai ông Lý Thái Tông lên ngôi vua.

Trong một dịp về quê Đình Bảng làm giỗ cha, ông đã lệnh cho người xây dựng đền Đô làm nơi thờ phụng cha trên nền ngôi đình cũ xưa kia làm nơi nghênh tiếp vua cha khi cha về thăm quê. Và đây cũng là nơi thờ phụng các vị vua nhà Lý sau này. Ngày 3 tháng 3 năm 1030, đền được khởi công xây dựng.

Sau này, đền được trùng tu lại rất nhiều lần qua các thời đại Lý, Trần, Lê. Lần trùng tu và mở rộng lớn nhất vào năm thứ 3 niên hiệu Hoằng Định của vua Lê Kính Tông, năm 1602, với quy mô 21 hạng mục công trình và khắc bia ghi lại công đức của các vị vua nhà Lý.

Năm 1952, thực dân Pháp sau khi xâm lược nước ta đã cho dội bom, phá hủy hoàn toàn ngôi đền. Năm 1989, đền được khởi công xây dựng lại theo kiến trúc ban đầu. Đây là thành quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu lịch sử đã nghiên cứu các dấu tích và tài liệu lưu trữ còn sót lại về ngôi đền. Về cơ bản, quần thể di tích đền Đô hiện nay giống với kiến trúc cũ.

Chỉ dẫn phương tiện di chuyển, đường đi Đền Đô Từ Sơn Bắc Ninh

Đền đền Lý Bát Đế hay còn gọi là Đền Đô nằm cách Hà Nội khoảng 20km nên du khách tự chạy xe máy hay lái xe ô tô gia đình đi là chủ yếu. Có 2 cung đường tùy vào điểm xuất phát mà bạn có thể lựa chọn cho thuận tiện:

Cầu Chương Dương → đường Nguyễn Văn Cừ → đường Hà Huy Tập → đường Trần Phú (Từ Sơn) → thấy biển chỉ dẫn rẽ bên phải, đi thẳng một đoạn là đến đến đền Đô.

Cầu Vĩnh Tuy → đường 5 → QL1A xuống Phủ Chẩn → rẽ trái theo hướng bảng chỉ dẫn vào đền.

Nếu ngại chạy xe hay chưa rành đường bạn cũng hoàn toàn có thể di chuyển bằng phương tiện công cộng. Tại Hà Nội có các tuyến buýt số 10, 54, 203 đi qua đền Đô.

Kiến trúc của Đền Đô

Kiến trúc đền Đô là sự kế thừa của phong cách cung đình và dân gian. Hai phong cách kiến trúc này được kết hợp hài hòa với thiên nhiên tạo nên một không gian thoáng đãng và đẹp mắt. Đây là một dự án hời hợt nhưng không cứng nhắc. Quần thể di tích đền Đô tuy khá rộng nhưng được chia thành các khu riêng biệt mang đến cho du khách những cảm nhận khác nhau: Hậu cung trang nghiêm, chánh điện uy nghiêm, nhà nước thư thái, văn minh, yên tĩnh.

Ngoài ra, nơi đây còn hội tụ nghệ thuật kiến trúc độc đáo của Việt Nam như: nghệ thuật điêu khắc đá: voi, rồng, lân, ngựa; nghệ thuật chạm khắc gỗ: chạm lân, chạm hoa văn trang trí, chạm rồng. Nghệ thuật điêu khắc tượng thờ và xây dựng hệ thống mái, cột đạt đến trình độ tinh xảo, đẹp mắt.

Tổng diện tích của khu di tích này là 31.250 m2, bao gồm 21 công trình lớn nhỏ, được chia thành hai khu vực nội thành và ngoại thành. Tất cả các công trình đều được xây dựng công phu, chạm khắc và sơn phết tỉ mỉ

Đền đô

Khu vực bên trong Đền

Khu đô thị có tổng diện tích 4.320 m2, được thiết kế theo phong cách “Nội công ngoại quốc”. Khu này bao gồm: Ngũ Long Môn, chánh điện, nhà chuyển tế, nhà bia. Ngũ Long Môn là cổng vào của nội thành, sở dĩ có tên như vậy vì trên hai cổng đều được chạm khắc hình tượng năm con rồng rất tinh xảo và sinh động. Trung tâm của nội điện là chánh điện. Trong chánh điện có Phương đình hay còn gọi là nhà vuông, nhà Tiền tế, Pháp đường cổ kính.

Phương Đình rộng 70 m2, xây 3 gian, 8 mái. Nhà Tiền tế có 7 phòng rộng 220 m2. Đây là nơi thờ vua Lý Thái Tổ, bên trái chính điện treo tấm biển Chiếu dời đô của vua Lý Thái Tổ với đúng 214 chữ, tương ứng với 214 năm trị vì của 8 vị vua nhà Lý. Bên phải là tấm biển đề bài thơ “Nam Quốc Sơn Hà Nam Đế cư”. Chính giữa bàn thờ có tượng hai người mặc áo bào đen là binh lính thời Lý, được chạm khắc rất sinh động. Hai bên gần cửa có đôi ngựa bạch hồng làm bằng gỗ mít, có đủ yên, áo giáp, dây cương đồng, lục lạc.

Dinh thự kiểu Pháp cổ có 7 gian, rộng 180 m2. Đây là nơi đặt ngai vàng, bài vị và 8 vị vua của nhà Lý. Gian giữa thờ vua Lý Công Uẩn và Lý Thái Tông, ba gian bên trái thờ Lý Nhân Tông, Lý Huệ Tông, Lý Anh Tông, ba gian bên phải thờ Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông, Lý Thần Tông.

Đình được xây dựng theo kiểu chồng diêm, có 8 mái, 8 đao cong mềm mại, gồm nhà thờ, nhà để kiệu và nhà thờ ngựa. Phía đông chùa có nhà bia, nơi đặt Cổ Pháp Điện Tạo Bi. Tấm bia này do tiến sĩ Phùng Khắc Khoan soạn, khắc năm 1605, dài 17cm, rộng 103cm, cao 190cm. Tấm bia này ghi lại sự kiện lịch sử nhà Lê xây dựng lại đền thờ và ghi công đức của các vị vua nhà Lý.

Đặc biệt, đền Đô còn sở hữu cuốn thư pháp gốm sứ Bát Tràng lớn nhất Việt Nam. Cuốn thư này nằm ở gian bên phải, rộng hơn 8m, cao 3,5m, chạm nổi chữ Hán, toàn bộ chữ được tráng men xanh Bát Tràng với diện tích khoảng 6m2. Bộ chữ này do một nhóm lớp Hán Nôm ở Hương Nam, Hà Nội sáng tạo, nét chữ do gia đình ông Phạm Xuân Hòa gắn.

Khu vực bên ngoài đền

Khu ngoại thành gồm các công trình: Thủy đình, Văn chỉ, Võ ca, Nhà tế lễ, Nhà khách, Nhà kho, Miếu Vua Bà. Thủy Đình được xây dựng trên mặt hồ hình bán nguyệt, rộng 5 gian, 8 mái, 8 đao uốn cong. Đây là nơi các quan xưa ngồi xem múa rối nước. Hồ hình bán nguyệt thông với ao Cả trên, ao Cả dưới và sông Tiêu Tương cũ. Thời Pháp thuộc, ngôi chùa này được Ngân hàng Đông Dương chọn làm hình ảnh in trên tờ tiền năm tấc.

Nhà văn nằm bên trái nội thành, gồm 3 gian, rộng 100 m, kiến trúc theo kiểu chồng diêm. Đây là nơi thờ các vị quan có công với nhà Lý như Tô Hiến Thành, Lý Đạo Thành. Nhà võ nằm bên phải nội thành, kiến trúc giống nhà văn. Đây là nơi thờ các quan văn võ có công với nhà Lý như: Lý Thường Kiệt, Lê Phụng Hiểu, Đào Cam Mộc.

Những địa điểm tham quan khác gần đền

Ngoài ra, du khách đến với Bắc Ninh cũng có thể tham quan cụm di tích lịch sử văn hóa trên quê hương nhà Lý như:

  • Chùa Dận: hay còn có cái tên gọi khác là Cổ Pháp Tự, chùa Ứng Thiên Tâm. Đây là nơi vua Lý Công Uẩn ra đời.
  • Chùa Kim Đài (tức Quỳnh Lâm tự): Nằm tại xóm Xuân Đài, làng Đình Bảng, huyện Từ Sơn. Đây là một trong những ngôi chùa cổ nhất Việt Nam. Đây cũng là nơi vua Lý Thái tổ từng làm chú tiểu.
  • Thọ lăng Thiên Đức (hay còn gọi là Cấm địa Dơn lăng). Đây là nơi yên nghỉ của các vua triều Lý. Ngoài 8 lăng thờ vua còn có lăng của Lý Thánh Mẫu Minh Đức Hoàng Thái Hậu Phạm Thị (mẹ của vua Lý Công Uẩn); lăng Nguyên Phi Ỷ Lan và lăng Lý Chiêu Hoàng.
  • Đình Bảng (có tên Nôm là đình Báng): là ngôi chùa nằm tại làng Đình Bảng, thị xã Từ Sơn. Được xây dựng vào đầu thế kỷ 18 thờ các vị thành hoàng gồm Cao Sơn đại vương; Thủy Bá đại vương và Bách Lệ đại vương. Đồng thời, đền cũng là nơi thờ tự của 6 vị có công lập làng vào thế kỷ XV.
  • Chùa Giỏ (tức Quang Đổ tự): là nơi nhiều người thường đến cầu phúc. Ngôi chùa được lập nên cụ Tự Thiện Đạo, thủy tổ của họ Nguyễn Tiến ở thôn Thượng xây dựng. Cho đến nay, ngôi chùa này đã có tuổi đời hơn 400 năm.

Đền đô

Trên đây là một số thông tin về Đền ĐôĐồ thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn về một ngôi chùa nằm ở Bắc Ninh. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về ngôi đền này nhé!

Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các ngôi chùa khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tớ nhé.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *