Đại Thế Chí Bồ Tát là ai? Sự tích về Quan Âm Thế Chí như thế nào? Vai trò của ngày trong Phật giáo ra sao? Thờ tượng Đại Thế Chí Bồ Tát tại gia mang lại lợi ích gì?
Sau đây hãy cùng Đồ Thờ Hưng Vũ khám phá chi tiết qua nội dung sau nhé!
Đại Thế Chí Bồ Tát là ai?
Đại Thế Chí Bồ Tát hay Đắc Đại Thế Bồ Tát, Linh Cái Bồ Tát, Đại Tinh Tấn Bồ Tát là một vị Đại Bồ tát thể hiện ánh sáng trí tuệ trong Phật giáo Đại Thừa, là bậc đại sĩ trợ tuyên chánh pháp cho Đức Phật A Di Đà ở Tây phương Cực Lạc.
Ngài là người dùng ánh sáng trí tuệ để chiếu khắp nhân gian. Giúp chúng sanh thập phương có thể thoát khỏi mọi sầu đau, tạo thành tựu đạo quả Bồ đề. Vị Bồ Tát trí tuệ dùng hạnh nguyên của mình để có thể trụ trong Ta bà thế giới, điều phục cũng như tiếp độ chúng sinh cang cường. Theo Kinh Bi Hoa, tiền thân của ngài là Ni-ma vương tử.
Vị này là con thứ 2 của Vô Chánh Niệm (sau là Đức Phật A Di Đà). Phật Bảo Tạng thọ ký rằng, sau khi Quan Âm Bồ Tát thành Phật, Bồ Tát Đại Thế Chí sẽ thay ngài quản giới phương Tây cũng như chánh pháp.
Tên của vị Bồ tát Thế Chí trong tiếng Phạn mang ý nghĩa “Sự xuất hiện của sức mạnh vĩ đại”. Có thể hiểu một cách khái quát rằng, sức mạnh ở đây chính là sức mạnh trí tuệ chiếu khắp thập phương.
Trong phật giáo Trung Hoa, ngài là một phần của Amita Trinity, có tên gọi là Da Shi Zhi Pu Sa. Trong phái Mật Tông Shingon của nước Nhật Bản, Bồ Tát Đại Thế Chí là một trong số 13 vị Phật của trường phái này.
Theo sự tích Đại Thế Chí Bồ Tát, ngài là một trong những vị Bồ Tát có quyền lực nhất, lâu đời nhất. Đặc biệt, đối với trường phái Tịnh độ, Bồ Tát Đại Thế Chí có vị trí vô cùng quan trọng trong mọi kinh điển của trường phái này.
Truyền thuyết về Đại Thế Chí Bồ tát
Hòa thượng Tuyên Hóa giảng:
Đại Thế Chí Pháp vương tử và Bồ Tát Quán Thế Âm đều là con trai của Đức Phật A Di Đà – khi Đức Phật còn là vị Chuyển luân thánh vương. Khi Đức Phật A Di Đà đã thành tựu quả Phật, hai vị Bồ Tát nầy đến để trợ thủ cho ngài.
Hai vị Bồ Tát là hai người bạn đồng hành hằng ngày của Đức Phật A Di Đà, một vị bên trái, một vị bên phải.
Khi Đức Phật A Di Đà nhập diệt, không còn là bậc giáo chủ của cõi Cực lạc phương Tây; trong nửa đêm, giáo pháp sẽ suy tàn; và đến cuối nửa đêm đó, Bồ Tát Quán Thế Âm sẽ thành Phật tại cõi Cực lạc phương Tây.
Khi Bồ Tát Quán Thế Âm nhập diệt, không làm bậc giáo chủ của cõi Cực lạc phương Tây nữa, thì Bồ Tát Đại Thế Chí sẽ thành Phật cùng một cách như Bồ Tát Quán Thế Âm, ngài làm giáo chủ cõi Tây phương Cực lạc.
Bồ Tát Đại Thế Chí còn được gọi là Đắc Đại Thế. Ngài rất mạnh, đến mức độ mỗi khi ngài nhấc tay, động chân, hay lắc đầu, thì đất bằng chuyển động. Khi ngài đi, thì đất rung chuyển. “Pháp vương tử” có nghĩa là Bồ Tát.”
Tiền thân đức Đại Thế Chí Bồ Tát là Vương Tử Ni Ma. Theo Kinh Bi Hoa: “Trong kiếp Thiện Trì, Phật hiệu là Bảo Tạng. Lúc ấy đức Phật A Di Đà có hiệu là Ly Tịnh. Bồ Tát Quán Thế Âm thị hiện làm Thái Tử thứ nhất, Đại Thế Chí Bồ Tát thị hiện làm thái tử thứ hai, tên là Ni Ma.
Khi vua cha Vô Tránh Niệm – Tiền thân của Phật A Di Đà Phật – Nghe theo lời khuyên của đại thần Bảo Hải – Tiền thân của Thích Ca Mâu Ni Phật – đã đến quy y, nghe pháp với Bảo Tạng Phật, phát tâm Bồ Đề và các đại nguyện.
Trưởng tử là vương tử Bất Thuấn – Tiền thân của Quán Thế Âm, vương tử Ni Ma – Tiền thân của Đại Thế Chí Bồ Tát và 888 vương tử đã cùng phát Bồ Đề tâm.
Cả hai vương tử đều phát nguyện khi thế giới Cực Lạc thành tựu sẽ hộ trì Phật A Di Đà thâu nhiếp chúng sanh niệm Phật ở mười phương thế giới về Cõi Cực Lạc..”
Trong Tam Tạng Kinh Điển, Đại Thế Chí Bồ Tát được nhắc đến nhiều nhất trong hai kinh: Kinh Bi Hoa và Kinh Thủ Lăng Nghiêm. Nơi kinh Bi Hoa là nói đến tiền thân của Ngài lúc còn hành Bồ Tát Đạo.
Nơi Kinh Lăng Nghiêm là nơi Ngài cùng 24 vị Thánh lược nói về 25 pháp môn viên thông. Cũng trong kinh này, môn Niệm Phật Viên Thông của Ngài được hậu thế tôn xưng là kim chỉ nam để vào được Niệm Phật Tam Muội.
Biểu tượng và hình ảnh của phật Đại Thế Chí Bồ Tát
Kinh Quán Thế Âm Bồ tát thụ kí (Đại 12, 353 hạ) nói:
“Tây phương cách đây trăm nghìn ức cõi; có Phật hiệu là A Di Đà Như Lai, Ứng cúng, Chính biến tri, hiện đang nói pháp. Đức Phật ấy có 2 vị Bồ tát, một là Quán Thế Âm, hai là Đại Thế Chí”. Đức Phật A Di Đà là Giáo chủ của thế giới Cực Lạc phương tây, Bồ tát Quán Thế Âm và Bồ tát Đại Thế Chí là 2 vị thị giả giúp Phật A Di Đà trong việc giáo hóa chúng sinh, vì thế được gọi là Tây Phương Tam Thánh.
Trong bức tranh vẽ “Tây Phương Tam Thánh”, Bồ Tát Đại Thế Chí cầm cành hoa sen màu xanh đứng bên tay phải Đức Phật A Di Đà, bên tay trái là Bồ Tát Quán Thế Âm cầm nhành dương liễu và bình tịnh thủy.
Theo kinh Quán Vô Lượng Thọ, Bồ tát thân cao tám mươi muôn ức na do tha do tuần, da màu vàng tử kim, trong thiên quang của Bồ tát có 500 hoa báu, mỗi một hoa báu có 500 đài báu, trong mỗi đài đều hiện quốc độ tịnh diệu của mười phương chư Phật, nhục kế như hoa Bát đầu ma, giữa nhục kế có một bình báu, khác hình tượng Quan Thế Âm Bồ tát.
Theo phẩm A-lợi-đa-la-đà-la-ni-a-lỗ-lực, hai Bồ tát đều toàn thân màu vàng, phóng hào quang trắng, tay phải cầm phất trần trắng, tay trái cầm hoa sen, thân hình Bồ tát Đại Thế Chí nhỏ hơn Quán Thế Âm.
Còn trong Hiện đồ mạn đồ la thai tạng giới của Mật tông, ngài là vị thứ hai ở phương trên trong viện Quan Âm, ngồi trên hoa sen đỏ, thân màu trắng, tay trái cầm hoa sen mới nở, tay phải co ba ngón giữa đặt trước ngực. Mật hiệu là Trì luân kim cương, hình Tam muội da là hoa sen mới nở.
Ý nghĩa của Bồ Tát Đại Thế Chí
Như trong ghi chép, Ngài lấy ánh sáng trí tuệ để chiếu sáng cho chúng sanh đạt được sức mạnh vô thượng.
Khi Bồ tát Thế Chí di chuyển, thế giới mười phương giống như xảy ra một cơn địa chấn. Ngài cùng Phạt A Di Đà và Bồ Tát Quan Thế Âm là tam thánh phương Tây. Trong Phật giáo, ngài có được nhắc tới rất nhiều và được sùng bái.
Trong văn hóa nước ta, Ngài là Phật bản mệnh của những người mang tuổi Ngọ.
Ngại giúp những người tuổi Ngọ có được sự thuận buồm xuôi gió, gặt hái được công danh trong sự nghiệp. Phật quang chiếu khắp nơi sẽ giúp bản mệnh tuổi Ngọ thoát được những tai họa, luôn có được may mắn như ý nguyện.
Hạnh nguyện của Bồ Tát Đại Thế Chí
Hạnh nguyện của Đại Thế Chí Bồ Tát đó là thuộc về tâm thức và các hạnh tu tâm dưỡng tính, giúp dật tới giác ngộ, giải thoát. Theo Bồ Tát Đại Thế Chí, trước tiên con người cần phải tu thiền định để đạt được trí tuệ minh mẫn và rời xa những ái dục để giúp giác ngộ và giải thoát. Sau khi tu thiền định, Đại Thế Chí Bồ Tát sẽ sang phát đại nguyện độ cho tất cả chúng sinh sẽ được an trụ trong cảnh giới của chư Phật.
Ngài có tâm vô ngã và rất công bằng, chân thực. Không bao giờ dụng tâm cố ý để cho người đời thấy và tán dương, khen ngợi. Bên cạnh đó cũng không dựa vào các công đức mà mình đã làm, không chấp tướng và cũng không ham cầu danh vọng.
Hạnh nguyện của Ngài đó chính là sự tinh tấn của đạo Phật. Nó đem lại nhiều lợi ích cho chúng sinh và đây cũng là pháp tu mang ý nghĩa biểu tượng cho những sự nỗ lực dũng mãnh và chân chính để đi đến con đường giác ngộ.
Hạnh tu của Đại Thế Chí Bồ Tát
Đại Thế Chí Bồ Tát còn có tên gọi khác là Ni Ma, tiền thân của Ngài là người con trai thứ hai của đời vua Chánh Niệm và là em trai của thái tử Bất Huyền. Sau này, vua Vô Chánh Niệm trở thành Phật A Di Đà và thái tử Bất Huyền cũng trở thành Quan Thế Âm Bồ Tát.
Nhà vua có tâm hướng Phật nên đã khuyên bảo con mình là Ni Ma phát tâm cúng dường Phật Bảo Tạng và đại chúng trong vòng 3 tháng liên tục.
Lúc này, một vị đại thần có tên là Bảo Hải đã đưa ra những lời khuyên cho Ni Ma hãy vì chúng sinh mà cầu đặng Nhứt Thiết Trí rồi đem công đức ấy để hồi hướng về với đạo Vô Thượng Bồ Đề. Khi đó sự phước báu sẽ không khi nào đạt tới giới hạn mà cái tâm nguyện sẽ luôn được đặng viện mãn.
Nghe thấy lời khuyên của Bảo Hải thấu tình đạt lý và ngài đã chú tâm vào những hạnh tu đó là:
Ba nghiệp của thân
Không sát hại chúng sinh.
Không trộm cướp của người đời.
Không tà dâm.
Bốn nghiệp của miệng
Không ăn nói láo xược.
Không nói những lời thêu dệt.
Không nói lời hai chiều.
Không ăn nói lời độc ác.
Ba nghiệp của ý
Không tham nhiễm danh lợi và sắc dục.
Không hờn giận oán cừu..
Không si mê ám muội.
Thân tướng của Bồ tát Đại Thế Chí
Viên quang nơi cổ mỗi phía rộng 125 do tuần, chiếu xa 250 do tuần. Ánh sáng của toàn thân màu vàng tử kim chiếu thấu thập phương thế giới, người có duyên liền được thấy.
Chỉ thấy được ánh sáng nơi một lỗ chân lông của Bồ tát, thời liền được thấy quang minh tịnh diệu của vô lượng chư Phật ở mười phương.
Vì thế nên Bồ tát có hiệu là Vô Biên Quang. Bồ tát dùng ánh sáng trí huệ chiếu khắp mọi loài, làm cho chúng sanh thoát khỏi tam đồ đặng thành vô thượng lực nên lại hiệu là Đại Thế Chí.
Thiên quan của Bồ tát có năm trăm bảo hoa. Mỗi bảo hoa có năm trăm bảo đài. Hình tướng những thế giới tịnh diệu của chư Phật ở mười phương đều hiện rõ bóng trong mỗi bảo đài.
Trên đỉnh đầu, nhục kế hình như hoa sen hồng. Trên nhục kế có một chiếc bình báu đầy ánh sáng. Ánh sáng trong bình chiếu ra thành những Phật sự. Ngoài ra những tướng hảo khác đều giống như đức Quan Thế Âm Bồ tát.
Lúc Đại Thế Chí Bồ tát đi thời chấn động cả thập phương thế giới. Chính chỗ đất động đó có năm trăm ức bảo hoa.
Mỗi bảo hoa cao đẹp trang nghiêm như Cực Lạc thế giới. Lúc Bồ tát ngồi, toàn cõi Cực Lạc đồng thời lay động.
Từ thế giới của đức Kim Cương Phật ở Hạ phương đến thế giới của đức Quang Minh Vương Phật ở Thượng phương, trong đó vô lượng trần số phân thân của Vô Lượng Thọ Phật, phân thân của Quan Thế Âm cùng của Đại Thế Chí tất cả đều vân tập nơi Cực Lạc thế giới, đông chật cả hư không.
Mỗi phân thân đều ngồi tòa sen báu, đồng diễn nói diệu pháp, cứu khổ chúng sanh…
Hình tượng Đại Thế Chí Bồ Tát
Trong Tây Phương Tam Thánh, Đại Thế Chí Bồ Tát đứng bên phải đức Phật A Di Đà. Ngài đeo chuỗi anh lạc cùng 1 bông hoa sen xanh bên tay phải. Hình tượng hoa sen xanh có ý nghĩa biểu tượng to lớn cho sự thanh tịnh, đoạn đức. Ngài sẽ dùng trí tuệ để loại bỏ những phiền não và cứu vớt mọi chúng sinh có thể thoát ra khỏi được những vũng bùn tội ác.
Để có thể phổ độ được chúng sanh trở về với cõi Tịnh Độ thì cần phải dạy cho họ cách dứt đi được mọi phiền não, ô uế trong đầu. Tên gọi Đại Thế Chí Bồ Tát cũng mang ý nghĩa là sử dụng ánh sáng của trí tuệ để giúp soi sáng và dẫn đường cho chúng sinh thấy được mọi ô uế của mình và giúp họ có thêm động lực để đoạn trừ được mọi ô uế đó qua đó đưa họ về cõi Tịnh Độ.
Xét theo tâm linh phong thủy, hình tượng Đại Thế Chí Bồ Tát sẽ phù hợp nhất với bản mệnh của những người tuổi thọ. Nếu người tuổi thọ nếu thờ tượng Ngài thì sẽ được Ngài phổ độ, giúp gặp dữ hóa lành, luôn gặp may mắn, bình an, vạn sự như ý và phát huy tối đa những trí tuệ tri thức của bản thân. Trên con đường công danh sự nghiệp, họ sẽ sớm gặt hái được nhiều thành công và công việc luôn thuận buồm xuôi gió. Ngoài ra, Phật quang chiếu sáng khắp nơi sẽ giúp cho những người tuổi Ngọ luôn tránh được các tai ương và gặp được nhiều điều may mắn.
Ý nghĩa thờ phụng tượng Đại Thế Chí Bồ Tát tại gia
Đối với những Phật tử mà theo Tịnh Độ Tông, thì trên bàn thờ Phật tại gia chắc chắn phải có hình tượng Tây Phương Tam Thánh. Tây Phương Tam Thánh bao gồm 3 vị Phật là Đại Thế Chí Bồ Tát, Quan Thế Âm Bồ Tát và đức Phật A Di Đà.
Đại Thế Chí Bồ Tát là biểu tượng cho trí tuệ soi sáng khắp muôn phương. Chính vì vậy, việc thờ cúng đức phật này trong nhà cũng sẽ giúp cho gia chủ luôn có một cái nhìn được sáng suốt và chính xác nhất trong mọi hoạt động của mình. Khi đó bạn sẽ biết điều gì nên làm và điều gì không nên làm.
Ngoài ra, việc thờ cúng vị Đại Thế Chí Bồ Tát tại gia như một ngọn đèn soi sáng cõi Ta Bà đau khổ. Ngài sẽ dẫn dắt, giúp đỡ gia chủ đi đúng đường đúng hướng, phấn đấu hết mức trên con đường đi đến giác ngộ và giải thoát.
Trên đây là một số thông tin về Bồ Tát Đại Chí Thế mà Đồ Thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về Bồ Tát Đại Chí Thế cũng như tiền thân của Phật ở nơi này nhé!
Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các thông tin khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tôi nhé!
Có thể bạn quan tâm: