Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa nổi tiếng của Việt Nam. Tên tuổi của ông được biết tới nhiều là một nhà thơ kiệt xuất thông qua tác phẩm Bình Ngô đại cáo – đoạn trích là một phần quan trọng trong chương trình Ngữ văn 10.
Hãy cùng Đồ Thờ Hưng Vũ tìm hiểu về lịch sử, gia đình và tư tưởng Nguyễn Trãi qua nội dung sau đây nhé!
Nguyễn Trãi là ai?
Nguyễn Trãi là một nhà chính trị, nhà văn, người đã tham gia tích cực Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc) với Đại Việt. Nguyễn Trãi (chữ Hán: 阮廌, 1380 – 19 tháng 9 năm 1442), tên hiệu của Nguyễn Trãi là Ức Trai (抑齋)
Nguyễn Trãi có cha là Nguyễn Phi Khanh, con rể của quan Tư đồ Trần Nguyên Đán nhà Trần. Khi nhà Trần bị Hồ Quý Ly lật đổ lập nên nhà Hồ, Nguyễn Trãi tham gia dự thi, thi đỗ Thái học sinh năm 1400, Nguyễn Trãi làm quan dưới triều Hồ với chức Ngự sử đài chính chưởng. Khi nhà Minh xâm lược, cha ông là Nguyễn Phi Khanh bị bắt giải về Trung Quốc.
Khi cuộc khởi nghĩa thành công vào năm 1428, Nguyễn Trãi trở thành một trong những khai quốc công thần của triều đại quân chủ nhà Hậu Lê trong Lịch sử Việt Nam. Ông được UNESCO vinh danh là “Danh nhân văn hóa của thế giới” và là 1 trong 14 anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Sau khi nước Đại Ngu rơi vào sự cai trị của nhà Minh, Nguyễn Trãi tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự thống trị của nhà Minh. Ông trở thành một trong những mưu sĩ của nghĩa quân Lam Sơn, tham gia xây dựng chiến lược cũng như giúp Lê Lợi soạn thảo các văn thư ngoại giao với quân Minh.
Ông tiếp tục phục vụ dưới triều đại vua Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông với chức vụ Nhập nội hành khiển và Thừa chỉ (tức Hàn lâm viện Thừa chỉ học sĩ hay Tuyên phụng đại phu Hàn lâm Thừa chỉ). Lần thăng chức sau đó, Nguyễn Trãi được phong Triều liệt đại phu, Nhập nội hành khiển, Lại bộ Thượng thư kiêm hành Khu mật viện sự.
Năm 1442, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị kết án tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Năm 1464, vua Lê Thánh Tông xuống chiếu ân xá cho ông. Nguyễn Trãi là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học và tư tưởng Việt Nam. Ông nằm trong danh sách 14 anh hùng dân tộc Việt Nam.
Nguyễn Trãi sinh năm bao nhiêu?
Nguyễn Trãi sinh năm 1380 và mất vào 19 tháng 9 năm 1442. Do sau vụ án Lệ Chi Viên tài liệu về ông bị thất tán rất nhiều, vì vậy không rõ năm sinh của ông
Nguyễn Trãi quê ở đâu?
Nguyễn Trãi quê ở Nhị Khê và là người làng Nhị Khê (nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, thủ đô Hà Nội). Ông là con của Nguyễn Phi Khanh, tiến sĩ cuối đời Trần, cháu ngoại tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Việt Nam) cho rằng gốc gác ông là ở làng Chi Nhạn, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương)
Nguyễn Trãi là anh hùng hay nghệ sĩ?
Nguyễn Trãi là Anh hùng dân tộc, là danh nhân văn hóa nổi tiếng trong nước và thế giới. Nguyễn Trãi là người đã tham gia tích cực Khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại sự xâm lược của nhà Minh (Trung Quốc) với Đại Việt.
Sau Vụ án Lệ Chi viên và bị tru di tam tộc, tài liệu về ông bị thất tán rất nhiều.
Nguyễn Trãi được mệnh danh là gì?
Nguyễn Trãi được mệnh danh là danh nhân văn hóa của thế giới
Nguồn gốc và giáo dục danh nhân Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi hiệu là Ức Trai, người làng Nhị Khê (nay là xã Nhị Khê, huyện Thường Tín, thủ đô Hà Nội), là con của Nguyễn Phi Khanh, tiến sĩ cuối đời Trần, cháu ngoại tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu Trần Nguyên Đán. Sách giáo khoa Ngữ văn 10 (Việt Nam) cho rằng gốc gác ông là ở làng Chi Nhạn, huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang (nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương).
Dưới thời nhà Trần, cha ông là Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh được Tư đồ Trần Nguyên Đán mời về dạy hai người con gái, con trưởng tên là Thái, con thứ tên Thai. Nguyễn Phi Khanh dạy Thái, nhân gần gũi, đã làm thơ quốc ngữ khêu gợi Thái, có quan hệ nam nữ với Thái, Hán Anh cũng làm thơ quốc ngữ bắt chước Phi Khanh.
Rốt cuộc Thái có thai, Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh bỏ trốn, đến ngày Thái đẻ, Trần Nguyên Đán mới hỏi Nguyễn Phi Khanh ở đâu, người nhà bảo Nguyễn Phi Khanh đã trốn đi.
Trần Nguyên Đán cho gọi hai người về gả con gái cho Nguyễn Phi Khanh, sinh ra Nguyễn Trãi. Sau đó Nguyễn Phi Khanh và Nguyễn Hán Anh thi đỗ, nhưng vua Trần Nghệ Tông bỏ không dùng, cho rằng: “Bọn chúng có vợ giàu sang, như thế là kẻ dưới mà dám phạm thượng”.
Theo nhà nghiên cứu sử hiện đại Trần Huy Liệu, Nguyễn Phi Khanh và Trần Thị Thái có với nhau 5 người con theo thứ tự là Nguyễn Trãi, Nguyễn Phi Báo, Nguyễn Phi Ly, Nguyễn Phi Bằng và Nguyễn Phi Hùng.
Mẹ mất sớm khi Nguyễn Trãi mới 6 tuổi, bố ông ở rể ở nhà ngoại, anh em Nguyễn Trãi ở nhà ông ngoại Trần Nguyên Đán, đến năm 1390 thì Trần Nguyên Đán mất. Nguyễn Phi Khanh phải một mình nuôi các con.
Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trãi
Tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trãi sống trong giai đoạn có nhiều biến động, Nguyễn Trãi không tránh khỏi được những thay đổi lớn trong cuộc đời.
Nguyễn Trãi sinh năm 1380, hiệu là Ức Trai, quê ở Chi Ngại (Chí Linh, Hải Dương) sau dời về Nhị Khê (Thường Tín, Hà Tây). Cha là Nguyễn Phi Khanh, một học trò nghèo, học giỏi, đỗ thái học sinh (tiến sĩ). Mẹ là Trần Thị Thái, con Trần Nguyên Đán, một qúy tộc đời Trần.
Lên 6 tuổi thì mẹ qua đời, Ức Trai về Côn Sơn sống với ông ngoại là Trần Nguyên Đán. Đến năm 1390, ông ngoại qua đời, ông theo cha về sống ở làng Nhị Khê.
Dù sống trong một thời kỳ “thanh bần” nhưng ông vẫn quyết chí, cố gắng học tập, trở thành người học rộng, có kiến thức sâu rộng về nhiều lĩnh vực và có ý thức về nghĩa vụ của một kẻ sĩ yêu nước thương dân.
Năm 20 tuổi (năm 1400) Nguyễn Trãi đỗ thái học sinh, cùng cha làm quan dưới thời nhà Hồ. Năm 1407, nhà Minh cướp nước ta, Nguyễn Phi Khanh bị chúng đưa sang Trung Quốc, Nguyễn Trãi và một người em đi theo để chăm sóc. Nghe theo lời khuyên của cha, ông trở về nhưng bị quân Minh bắt giữa.
Trở về Đông Quan, ông sống ẩn khuất trong nhân dân để tránh sự truy bắt của quân Minh. Trong ông luôn nung nấu ý chí “đền nợ nước, báo thù nhà”. Khi nghe tin Lê Lợi khởi nghĩa Lam Sơn, Nguyễn Trãi rời khỏi Đông Quan tới Thanh Hóa để gặp Lê Lợi, dâng “Bình Ngô sách” và được Lê Lợi trọng dụng.
Nguyễn Trãi đã đồng cam cộng khổ với nghĩa quân Lam Sơn, đem hết tài năng, ý chí, nguyện vọng để phục vụ cho cuộc kháng chiến vĩ đại. Trải qua nhiều gian khổ, cuối cùng ông đã thực hiện được ước mơ đánh đuổi giặc Minh, mang lại độc lập cho đất nước vào năm 1427
Nguyễn Trãi chính là người đã thay Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo để tổng kết chiến thắng oanh liệt của cả dân tộc. Bài cáo thể hiện sâu sắc ý tưởng nhân nghĩa, bộc lộ rõ ý chí và nguyện vọng của một người con luôn vì nước vì dân.
Làm quan dưới hai triều Lê Thái Tổ và Lê Thái Tông, ông đã ra sức chèo lái con thuyền của triều đình nhà Lê đi đúng hướng, theo đúng con đường chính đạo, thực hành nhân nghĩa để yên dân. Nguyễn Trãi đem hết tài năng, sức lực xây dựng triều đình, xã hội thái bình, thịnh trị.
Với tính khí cương trực cùng tư tưởng lấy dân làm gốc, ông không tránh khỏi sự ghen ghét, đố kỵ của quan tham, nhiều lần bị hãm hại, nghi oan, giáng chức khiến cho ông vô cùng buồn tủi.
Đến năm 1440, Lê Thái Tông mời ông quay trở lại làm việc, giao cho nhiều trọng trách quan trọng. Được tin cậy trở lại, ông ra sức làm việc, quên đi bản thân thì cũng là lúc xảy ra vụ việc vua Lê Thái Tông mất tại nhà riêng của ông tại Lệ Chi Viên.
Lợi dụng việc này, gian thần trong triều đình đã vu oan cho ông có âm mưu giết vua, khép vào tội phải giết cả ba họ vào năm 1442. Cả nhà Nguyễn Trãi bị giết.
Nỗi oan tày trời ấy mãi đến năm 1464, Lê Thánh Tông mới được giải tỏa, cho sưu tầm thơ văn của ông và tìm lại người con trai sống sót cho làm quan. Có thể nói rằng, vụ án Lệ Chi Viên là vụ án oan thảm khốc nhất trong lịch sử phong kiến của Việt Nam.
Nhìn chung, cuộc đời của Nguyễn Trãi gắn liền với việc phụng sự, phò tá đất nước. Ông là một bậc anh hùng của dân tộc, một nhân vật toàn tài hiếm có trong lịch sử phong kiến Việt Nam.
Nguyễn Trãi là người có nhân cách cao cả, cương trực, sống đầy khát khao, hoài bão luôn vì dân vì nước. Ông là một nhà chính trị, nhà quân sư, nhà ngoại giao, nhà văn hóa, nhà văn, nhà thơ kiệt xuất của dân tộc. Nhưng Nguyễn Trãi cũng là người phải chịu nhiều oan khiên thảm khốc hiếm có trong lịch sử.
Sự nghiệp Nguyễn Trãi
Ông ngoại của Nguyễn Trãi, Trần Nguyên Đán, là một tôn thất, lại là đại thần triều Trần, không chống lại Hồ Quý Ly mà gửi gắm con cháu mình cho Hồ Quý Ly. Trần Nguyên Đán đem con là Mộng Dữ ký thác cho Quý Ly. Hồ Quý Ly đem công chúa gả cho.
Sau khi lên làm hoàng đế, Hồ Quý Ly cho Mộng Dữ làm Đông Cung phán thủ, em của Mộng Dữ là Trần Thúc Dao và Trần Thúc Quỳnh đều làm tướng quân.
Thượng hoàng Nghệ Tông thường ngự đến nhà riêng của ông để thăm bệnh và hỏi việc sau này. Nhưng Nguyên Đán đều không nói gì, chỉ thưa: “Xin bệ hạ kính nước Minh như cha, yêu Chiêm Thành như con, thì nước nhà vô sự. Tôi dầu chết cũng được bất hủ”. Về sau, con cháu Trần Nguyên Đán đều được Hồ Quý Ly bảo toàn.
Năm 1400, Hồ Quý Ly phế truất vua Trần Thiếu Đế, lật đổ nhà Trần, thành lập nhà Hồ. Cùng năm, nhà Hồ mở khoa thi Nho học, Nguyễn Trãi tham dự và đỗ Thái học sinh, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Quý Ly thi Thái học sinh, cho bọn Lưu Thúc Kiệm 20 người đỗ; Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Vũ Mộng Nguyên… đều dự đỗ. Sau đó, ông được làm Ngự sử đài Chính chưởng. Nguyễn Phi Khanh năm 1401 được Hồ Hán Thương lấy làm Hàn lâm viện học sĩ.
Năm 1407, Minh Thành Tổ phái Trương Phụ đem quân xâm lược nước Đại Ngu, nhà Hồ kháng chiến thất bại, Hồ Quý Ly cùng nhiều triều thần bị bắt và bị đem về Trung Quốc. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, nhiều người kinh lộ không ủng hộ nhà Hồ nên hầu hết đầu hàng quân Minh. Cha ông là Nguyễn Phi Khanh cùng một số quan lại nhà Hồ đã đầu hàng trước đó.
Sách Đại Việt sử ký toàn thư không chép gì về Nguyễn Trãi ở thời gian này. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép: Ngày 12, đầu mục bộ hạ của Mạc Thúy là bọn Nguyễn Như Khanh bắt được Hán Thương và thái tử Nhuế ở núi Cao Vọng. Bọn Hồ Đỗ, Phạm Lục Ngạn, Nguyễn Ngạn Quang, Đoàn Bồng đều bị bắt. Còn bọn Trần Nhật Chiêu, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Cẩn, Đỗ Mãn đã hàng quân Minh trước rồi.
Theo sách Lịch triều hiến chương loại chí, sau cuộc Chiến tranh Minh – Đại Ngu, Đại Ngu rơi vào ách Minh thuộc. Lúc này, Nguyễn Trãi đang chạy trốn để thoát khỏi sự truy bắt của quân Minh.
Tổng binh Trương Phụ ép Nguyễn Phi Khanh viết thư gọi ông, ông bất đắc dĩ phải ra hàng. Trương Phụ biết ông không chịu ra làm quan hợp tác với quân Minh, muốn giết đi, nhưng Thượng thư Hoàng Phúc thấy mặt mũi khác thường, tha cho và giam lỏng ở thành Đông Quan.
Ngoài ra, anh em đàng ngoại của Nguyễn Trãi, các con của ông ngoại Trần Nguyên Đán, cậu ruột của Nguyễn Trãi là Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu cũng đầu hàng quân Minh, được phong tước, cho giữ đất Diễn Châu.
Đến năm 1408, nhà Hậu Trần nổi lên đánh quân Minh, khi đến Nghệ An đã giết Trần Thúc Dao, Trần Nhật Chiêu cùng 600 người khác.
Sự nghiệp sáng tác thơ – văn của Nguyễn Trãi
Nguyễn Trãi là một nhà thơ, nhà văn nổi tiếng của dân tộc, Nguyễn Trãi để lại nhiều tác phẩm văn học có giá trị với nhiều thể loại như chính luận, thơ. Ngoài ra, ông còn có nhiều tác phẩm về địa lý, lịch sử nổi tiếng.
Về thể loại chính luận phải kể đến tác phẩm Bình Ngô đại cáo, Quân trung từ mệnh tập. Quân trung từ mệnh tập là những thư từ gửi cho các tướng giặc và những mẩu giấy giao thiệp với triều đình nhà Minh để thực hiện kế “đánh vào lòng”, ngày nay gọi là “địch vận”.
Bình Ngô đại cáo là “áng thiên cổ hùng văn” viết bằng chữ Hán, lấy lời vua Lê Lợi, tổng kết 10 năm chống giặc, tuyên bố trước nhân dân về chính nghĩa quốc gia, dân tộc, về quá trình chiến đấu gian lan để đi tới chiến thắng cuối cùng. Ngoài ra còn có khoảng 28 tác phẩm gồm phú, tấu, chiếu, lục, ký, biểu,…
Về lịch sử, bao gồm các ký sự ghi chép về 10 năm khởi nghĩa Lam Sơn (Tập Lam Sơn Thực lục) hay bài văn bia ở Vĩnh Lăng (Tác phẩm Vĩnh Lăng thần đạo bi) kể lại thân thế, sự nghiệp của nhà vua Lê Thái Tổ.
Trong lĩnh vực địa lý, có tác phẩm “Dư địa chí” được viết bằng chữ Hán, ghi chép sơ lược về địa lý hành chính, tự nhiên của Việt Nam qua các giai đoạn lịch sử.
Bên cạnh đó, Nguyễn Trãi còn có sự nghiệp văn thơ đồ sồ với những tác phẩm như Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập, Chí Linh sơn phú, Côn sơn ca,…nội dung thể hiện tình yêu gia đình, quê hương, đất nước và nhân dân.
Trong đó, tác phẩm Ức Trai thi tập là cuốn tự thuật về chính bản thân tác giả, gồm 105 bài thơ được coi là tác phẩm nổi tiếng trong sự nghiệp văn chương của Nguyễn Trãi.
Gia đình Nguyễn Trãi
Một số thông tin hữu ích khác về Nguyễn Trãi
Vợ Nguyễn Trãi là ai?
Theo tiểu sử cuộc đời Nguyễn Trãi có ghi lại, ông có 5 vợ:
- Bà Trần Thị Thành
- Bà Phùng Thị
- Bà Lê Thị
- Bà Nguyễn Thị Lộ
- Bà Phạm Thị Mẫn
Con Nguyễn Trãi là ai?
Nguyễn Trãi có 7 người con, đó là:
- Nguyễn Ứng.
- Nguyễn Phù.
- Nguyễn Bảng.
- Nguyễn Tích.
- Nguyễn Anh Vũ.
- Ông tổ chi họ Nguyễn ở Quế Lĩnh (Hải Dương).
Vì sao Nguyễn Trãi về Côn Sơn ở ẩn?
Dưới thời vua Lê Thái Tổ, Nguyễn Trãi từng bị nghi kỵ, nhiều lần bắt giam vào ngục. Vua cũng giết hại những kẻ khai quốc công thần như Trần Nguyên Hãn, Phạm Văn Xảo nên có rất nhiều đại thần cương trực đã xin về quê ở ẩn.
Sau khi vua Lê Thái Tổ qua đời, vua Lê Thánh Tông lên ngôi khi mới còn nhỏ tuổi nên bọn quan xu nịnh, tham nhũng mặc sức hoành hành. Chứng kiến cảnh tượng đó, Nguyễn Trãi cáo quan về quê. Ông về quê ngoại Côn Sơn (Hải Dương) để ở ẩn.
Lý do Nguyễn Trãi mất?
Nguyễn Trãi và người thân 3 đời của ông đều chết vì vụ án oan Lệ Chi Viên. Sử sách ghi lại, vua Lê Thái Tông đi tuần rồi ngự lại nơi ở của Nguyễn Trãi.
Vua Thái Tông yêu quý tài năng văn chương và sự xinh đẹp của Nguyễn Thị Lộ (vợ Nguyễn Trãi) nên cho hầu cạnh vua suốt đêm, sau đó vua qua đời. Nguyễn Thị Lộ bị buộc tội giết vua, gia đình Nguyễn Trãi vì thế phải chịu án “tru di tam tộc”.
Phải đến năm 1464, vua Lê Thánh Tông mới chính thức ban chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, truy tặng ông tước Tán Trù Bá, ban cho con trai Nguyễn Trãi, người sống sót duy nhất trong gia đình sau vụ án Lệ Chi Viên, là Nguyễn Anh Vũ chức huyện quan.
Sau đó, Lê Thánh Tông còn ra lệnh sưu tầm di cảo thơ văn Nguyễn Trãi, nhờ đó mà một phần quan trọng các di sản văn hóa của Nguyễn Trãi còn tồn tại đến ngày nay.
Mặc dù vua Lê Thánh Tông đã xuống chiếu minh oan cho Nguyễn Trãi, nhưng Nguyễn Thị Lộ, vợ Nguyễn Trãi, người bị nghi là hung thủ chính, chưa được vua minh oan. Sử sách không nhắc gì đến việc này.
Nguyễn Trãi để lại rất nhiều đóng góp quan trọng cho sự phát triển của văn học và tư tưởng. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh nhật, UNESCO đã công nhận ông là Danh nhân văn hóa Thế giới. Đồng thời ông còn được vinh danh là một trong 14 vị anh hùng của dân tộc.
Vụ án Lệ Chi Viên
Tháng 9 năm 1442, vua Lê Thái Tông đi tuần ở miền Đông. Ngày 1 tháng 9 năm 1442, sau khi nhà vua duyệt binh ở thành Chí Linh, Nguyễn Trãi đón Lê Thái Tông đi thuyền vào chơi chùa Côn Sơn. Khi trở về Đông Kinh, người thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ theo hầu vua.
Ngày 7 tháng 9 năm 1442, thuyền về đến Lệ Chi Viên thì vua bị bệnh, thức suốt đêm với Nguyễn Thị Lộ rồi mất. Các quan giấu kín chuyện này, nửa đêm ngày 9 tháng 9 năm 1442 về đến Đông Kinh mới phát tang.
Triều đình qui tội Nguyễn Thị Lộ giết vua, bèn bắt bà và Nguyễn Trãi, khép hai người vào âm mưu giết vua. Ngày 19 tháng 9 năm 1442 (tức ngày 16 tháng 8 năm Nhâm Tuất), Nguyễn Trãi bị giết cùng người thân 3 họ, gọi là tru di tam tộc.
Tư tưởng Nguyễn Trãi
Thời hiện đại, một số nhà làm sử ở Việt Nam như Doãn Chính, Phan Huy Lê, Nguyễn Khắc Thuần… đã viết các sách với nội dung mà họ gọi là Tư tưởng Nguyễn Trãi, nay trích lại dưới đây:
Nguyễn Trãi được coi là một nhà tư tưởng lớn của Việt Nam, tư tưởng của ông là sản phẩm của nền văn hóa Việt Nam thời đại nhà Hậu Lê khi mà xã hội Việt Nam đang trên đà phát triển, đánh dấu một giai đoạn phát triển quan trọng trong lịch sử tư tưởng Việt Nam.
Tư tưởng Nguyễn Trãi không được ông trình bày thành một học thuyết có hệ thống hay chứa đựng trong một trước tác cụ thể nào mà được thể hiện rải rác qua các tác phẩm của ông, được phát hiện bằng các công trình nghiên cứu của các nhà khoa học xã hội hiện đại.
Nét nổi bật trong tư tưởng Nguyễn Trãi là sự hòa quyện, chắt lọc giữa tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo (trong đó Nho giáo đóng vai trò chủ yếu), có sự kết hợp chặt chẽ với hoàn cảnh thực tiễn Việt Nam lúc đó.
Ảnh hưởng của Nho giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi
Tư tưởng Nguyễn Trãi xuất phát từ Nho giáo, mà cụ thể là Nho giáo Khổng Tử. Ông đã vận dụng xuất sắc các tư tưởng Nho giáo vào công cuộc khởi nghĩa, chống lại sự thống trị của nhà Minh lên Việt Nam cũng như trong công cuộc xây dựng đất nước thời kì đầu nhà Hậu Lê.
- Tư tưởng nhân nghĩa: Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi là nội dung cốt lõi trong toàn bộ hệ thống tư tưởng triết học – chính trị của ông. Tư tưởng ấy có phạm vi rộng lớn, vượt ra ngoài đường lối chính trị thông thường, đạt tới mức độ khái quát, trở thành nền tảng, cơ sở của đường lối và chuẩn mực của quan hệ chính trị, là nguyên tắc trong việc quản lý, lãnh đạo quốc gia. Nhân nghĩa của Nguyễn Trãi gắn liền với tư tưởng nhân dân, tinh thần yêu nước, tư tưởng hòa bình là một đường lối chính trị, một chính sách cứu nước và dựng nước. Nhân nghĩa còn được thể hiện ước mơ xây dựng xã hội lý tưởng cho nền thái bình muôn thuở: xã hội Nghiêu Thuấn của Nguyễn Trãi. Tất nhiên mơ ước ấy của ông là không tưởng.
- Mệnh trời: Nguyễn Trãi tin ở Trời và ông coi Trời là đấng tạo hóa sinh ra muôn vật. Cuộc đời của mỗi con người đều do mệnh trời sắp đặt. Vận nước, mệnh vua cũng là do trời quy định. Nhưng Trời không chỉ là đấng sinh thành, mà còn có tình cảm, tấm lòng giống như cha mẹ. Lòng hiếu sinh và đạo trời lại rất hòa hợp với tâm lý phổ biến và nguyện vọng tha thiết của lòng người, đó là hạnh phúc, ấm no và thái bình. Nếu con người biết tuân theo lẽ trời, mệnh trời, thì có thể biến yếu thành mạnh, chuyển bại thành thắng. Và ngược lại, theo Nguyễn Trãi, nếu con người không theo ý trời, lòng trời, thì có thể chuyển yên thành nguy và tự rước họa vào thân.
- Tư tưởng nhân dân: Nguyễn Trãi đầy lòng thương dân, yêu dân và trọng dân. Ông khẳng định nhân dân là lực lượng sản xuất ra vật chất của xã hội và động lực quyết định sự suy vong của triều đại, đất nước. Ông được coi là nhân vật lịch sử có tư tưởng nhân dân cao quý nhất trong lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam.
- Quan điểm sống: Nguyễn Trãi khuyên con người ta nên tu thân theo các tiêu chuẩn Nho giáo: sống trung dung, tuân theo tam cương ngũ thường, đặc biệt là đạo hiếu và đạo trung.
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo với tư tưởng Nguyễn Trãi
Ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi chủ yếu qua các tác phẩm thơ văn của ông với nội dung khuyên răn luân lý. Ông khuyên con người ta không coi trọng vật chất mà nên sống với chữ đức, hiểu được giá trị bền vững của đạo đức, coi trọng danh dự và sự giàu có về tâm hồn hơn là sự giàu có về tiền bạc. Danh lợi là sắc không, đạo đức mới là của chầy.
Muốn có đạo đức thì phải làm điều thiện, sống có hiếu, có khí tiết, không uốn mình, không cầu xin danh lợi, không oán thán, biết tha thứ cho người khác, sống trong sạch, lành mạnh, thanh tịnh, luôn nhận phần thiệt thòi về mình. Tư tưởng Lão – Trang thể hiện ở quan niệm sống phủ nhận danh lợi, ung dung tự tại, vô vi và hòa hợp với thiên nhiên.
Một số ý kiến cho rằng, ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo, dù chỉ giữ vị trí thứ yếu trong tư tưởng Nguyễn Trãi, chính là ảnh hưởng của tam giáo đồng nguyên trong hệ tư tưởng Lý – Trần. Nguyễn Trãi sống trong một thời kỳ quá độ, thời kỳ bản lề của hai chặng đường lịch sử văn hóa Việt Nam. Trước Nguyễn Trãi là một văn hóa Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Phật giáo, sau Nguyễn Trãi là một văn hóa Đại Việt được cấu trúc theo mô hình Nho giáo từ Trung Quốc.
Nguyễn Trãi chủ trương xây dựng một nền văn hóa dân tộc, Nho giáo trong tư tưởng của ông có thể gọi là tư tưởng Nho giáo dân gian. Sự thất bại của Nguyễn Trãi trong việc chế định nhã nhạc và việc Lương Đăng hoàn toàn mô phỏng nhã nhạc triều Minh trong việc soạn nhạc cung đình triều Lê đã đánh dấu một bước ngoặt trong sự tiến triển của tình trạng nhị nguyên văn hóa giữa cung đình và dân gian.
Sức sống của nền văn hóa dân tộc giờ đây phải tìm về kho tàng văn hóa dân gian, ở đó các cương lĩnh Nho giáo đã bị lật ngược lại, còn trong triều đình thì về chính trị là chế độ trung ương tập quyền theo hướng chuyên chế, về tư tưởng – văn hóa thì theo hướng độc tôn Nho giáo, bài xích Phật giáo, Đạo giáo và tín ngưỡng dân gian.
Tưởng niệm Nguyễn Trãi ngày nay
Năm 1956, Bộ Văn hóa Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tổ chức lần đầu tiên lễ kỷ niệm Nguyễn Trãi nhân 514 năm ngày mất của ông. Sau đó, vào các năm 1962, 1967, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đều đặn kỉ niệm 520 năm và 525 năm ngày mất của Nguyễn Trãi và đã phát hành một bộ tem về ông vào năm 1962.
Năm 1980, tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp Quốc UNESCO tổ chức kỷ niệm 600 năm ngày sinh Nguyễn Trãi. Cũng trong năm đó, Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho phát hành một bộ tem về Nguyễn Trãi nhân kỉ niệm 600 năm ngày sinh của ông.
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Nhị Khê, Hà Nội vốn là từ đường của họ Nguyễn Nhị Khê, được xây dựng sau khi vua Lê Thánh Tông chiêu tuyết cho ông. Đền còn lưu giữ bức chân dung Nguyễn Trãi cổ vẽ trên lụa và nhiều bức hoành phi nêu bật công lao và đức độ Nguyễn Trãi. Nhân dịp kỷ niệm 600 năm ngày sinh của Nguyễn Trãi, nhà thờ đã được tôn tạo mở rộng, có thêm phòng trưng bày về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Trãi và tượng đài Nguyễn Trãi. Đền được xếp hạng Di tích lịch sử văn hóa vào tháng 1 năm 1964.
Đền thờ Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Hải Dương được khởi công xây dựng vào năm 2000 và khánh thành vào năm 2002. Tọa lạc tại khu vực động Thanh Hư, đền có mặt bằng rộng 10.000 m2, xoải dốc dưới chân dãy Ngũ Nhạc kề liền núi Kỳ Lân, chia thành nhiều cấp, tạo chiều sâu và tăng tính uy nghiêm.
Nghệ thuật trang trí mô phỏng phong cách Lê và Nguyễn. Đền đã được công nhận Di tích nghệ thuật kiến trúc năm 2003. Ngoài ra, Nguyễn Trãi và Nguyễn Thị Lộ cũng được thờ ở làng Khuyến Lương, nay là phường Trần Phú, quận Hoàng Mai và ở xã Lệ Chi, huyện Gia Lâm, Hà Nội.
Trên đây là thông tin về cuộc đời, gia đình của Nguyễn Trãi mà Đồ Thờ Hưng Vũ đã tổng hợp. Hy vọng qua nội dung trên bạn đọc đã hiểu rõ về danh nhân văn hóa nổi tiếng của Việt Nam.
Nếu quan tâm tới các thông tin về lịch sự, đồ thờ thì hãy đón đọc thông tin mới nhất của chúng tôi nhé!
Xem thêm sản phẩm của chúng tôi:
- Bàn thờ đẹp
- Hoành phi câu đối bằng gỗ
- Ngai thờ đẹp
- Mẫu án gian thờ bằng gỗ
- Mẫu sập thờ đẹp
- Cửa võng thờ đẹp