Hòa thượng Thích Thanh Từ: Tiểu sử, cuộc đời, còn sống không?

Hòa thượng Thích Thanh Từ là ai? Tiểu sử thiền sư Thích Thanh Từ thế nào? Hòa thượng Thích Thanh Từ còn sống không? Hiện mắc bệnh gì? Đó là nhiều thắc mắc của các phật tử và các bạn đọc đang qua tâm và đã gửi về cho Đồ Thờ Hưng Vũ.

Bởi ông là bậc cao tăng vô cùng nổi tiếng trong Phật giáo Việt Nam. Ông có sự ảnh hưởng và đóng góp cao cả đối với Phật học và Phật giáo Việt Nam, góp phần phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử mà chúng ta nhìn thấy ngày nay.

Vậy sau đây hãy cùng chúng tôi đi tìm lời giải cho các thắc mắc trên nhé!

Hòa thượng Thích Thanh Từ là ai?

Thích Thanh Từ (thế danh Trần Hữu Phước, sinh ngày 24 tháng 7 năm 1924) tại ấp Tích Khánh, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. Ông là thiền sư; nhà khảo cứu, thông dịch và giảng giải các kinh luận Phật học người Việt Nam. Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ hiện là Phó Pháp chủ Hội đồng chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Ông được biết đến là người phục hưng dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử cùng nhiều ấn phẩm về thiền.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Tiểu sử Thích Thanh Từ

Thiền Sư Thích Thanh Từ tên khai sinh Trần Hữu Phước, sau đổi thành Trần Thanh Từ, sanh ngày 24 tháng 7 năm 1924 tại ấp Tích Khánh, xã Thiện Mỹ, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long.

Cha của ông là Trần Văn Mão, mẹ là Nguyễn Thị Đủ. Sau khi trải nghiệm ba tháng làm công quả tại chùa Phật Quang, xứ Bang Chang, Trà Ôn, vào ngày 15 tháng 7 năm Kỷ Sửu, 1949, Thích Thiện Hoa đã thế phát xuất gia cho ông.

Từ nhỏ ông đã theo nghiệp Nho, giữ nếp sống thanh bần, thanh cao, theo đạo Cao Ðài.

Hòa thượng Thích Thanh Từ tuy được sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh khó khăn nghèo túng thế nhưng ông đã rất nổi bật với những nét riêng ngay từ khi còn thơ bé, đó là sự trầm mặc, ít nói, thích đọc sách, có chí xuất trần và đặc biệt ông vô cùng hiếu thảo với cha mẹ và thích làm việc thiện.

Vào năm ông 10 tuổi, nhân dịp theo cụ ông lên Mốp Văn, Long Xuyên thọ tang người bác của gia đình, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã được đến thăm chùa Sân Tiên trên núi Ba Thê lần đầu tiên để cúng cầu siêu cho bác.

Nhờ đó mà ông đã nảy sinh cái duyên đối với chốn cửa Phật, tức cảnh đọc thơ.

Ngày 15 tháng 7 năm 1949, sau 3 tháng làm công quả tại chùa Phật Quang, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã được sư thầy Tổ Thiện Hoa chính thức cho xuất gia với pháp danh là Thanh Từ. Thế là ước nguyện của ông đã được thực hiện.

Từ đó, ông đã siêng năng theo Tổ công phu bái sám, vừa học giáo lý, vừa dạy trẻ nhỏ những bài giảng Phật pháp.

Ngoài ra ông còn phụ trông nom và chăm sóc hàng chục chú tiểu trong chùa.

Hòa thượng Thích Thanh Từ còn sống không?

Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ hiện nay còn sống và thọ 99 tuổi (2023), được biết đến là vị đã phục hưng thiền phái Trúc Lâm, chủ trương xây dựng hàng loạt thiền viện với quy mô rất lớn ở nhiều tỉnh, thành phố trong nước và nước ngoài. Ngài được suy tôn là Phó Pháp chủ Hội đồng Chứng minh GHPGVN

Hòa thượng Thích Thanh Từ bị bệnh gì?

Hiện nay Hòa thượng Thích Thanh Từ sức khỏe đã khá yếu do bệnh tuổi già.

Quá trình học Phật của Hòa thượng Thích Thanh Từ

Vào giai đoạn những năm 1949 – 1950, Hòa thượng Thích Thanh Từ theo học lớp Sơ đẳng năm thứ 3 tại Phật học đường Phật Quang. Đến năm 1951, ông bắt đầu học lên Trung đẳng.

Cũng trong năm này, chùa Phật Quang bị binh biến, Tổ Thiện Hoa phải dời tất cả tăng chúng lên chùa Phước Hậu, Hòa thượng Thích Thanh Từ cũng được theo và thọ giới Sa-di tại đây do Tổ Khánh Anh làm Hòa thượng đàn đầu.

Cho đến năm 1953, ông đã theo Bổn sư là Tổ Thiện Hoa lên Sài Gòn, tiếp tục theo học lớp Trung đẳng tại Phật học đường Nam Việt chùa Ấn Quang. Tại đây, ông được thọ giới cụ túc do Tổ Huệ Quang làm Hòa thượng đàn đầu.

Từ những năm 1954 đến năm 1959, ông đã theo học Cao đẳng Phật học tại Phật học đường Nam Việt.

Sau gần 10 năm trải qua Sơ đẳng, Trung đẳng Cao đẳng Phật học, đoạn đường Tăng sinh kể như là đã hoàn tất, Hòa thượng Thích Thanh Từ bắt đầu bước sang thời kỳ hóa đạo.

Ông là một vị Giảng sư trong Giảng sư đoàn của ban Hoằng pháp, có uy tín khá lớn thời bấy giờ và được đông đảo Phật tử xa gần yêu mến và quý trọng.

Tổng hợp về qua trình học của Hòa thượng Thích Thanh Từ như sau:

  • Năm 1949 – 1950: Học Sơ đẳng Phật học tại Phật Học Đường Phật Quang.
  • Năm 1951 – 1952: Học Trung đẳng Phật học tại Chùa Phật Quang và Chùa Phước Hậu. Thọ giới Sa Di do tổ Khánh Anh làm Hòa thượng Đàn Đầu.
  • Năm 1953 – 1954: Học Trung đẳng tại Phật học Đường Nam Việt, Chùa Ấn Quang. Thọ giới Cụ túc tại chùa Ấn Quang do tổ Huệ Quang làm Hòa thượng.
  • Năm 1954 – 1958: Học Cao đẳng Phật Học tại Phật Học Đường Nam Việt.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Những thành tựu nổi bật mà Hòa Thượng Thích Thanh Từ đã đạt được

Từ năm 1960 đến năm 1964, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã giữ nhiều chức vụ quan trọng trong Phật giáo, có thể kể đến như: Phó Vụ trưởng Phật học vụ, Vụ trưởng Phật học vụ

Giáo sư kiêm Quản viện Phật học viện Huệ Nghiêm, Giảng sư Viện Ðại học Vạn Hạnh và các Phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm,…

Sau lễ mãn khóa Cao Trung chuyên khoa tại Huệ Nghiêm và Dược Sư, Hòa thượng Thích Thanh Từ đã xin phép Tổ Thiện Hoa được lui về núi ẩn tu.

Khi này ông đã thật sự giã từ Phật học viện, giã từ phấn bảng với năm tháng miệt mài vì tứ chúng, thế nhưng hai tiếng “Tăng Ni” vẫn xoáy sâu vào lòng ông, để sau này chút duyên “Thầy Trò” ấy lại gặp nhau và càng thêm son sắt trên đỉnh Tương Kỳ.

Tháng 4 năm 1966, Hòa thượng Thích Thanh Từ dựng Pháp Lạc thất trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu.

Ngôi thất lá vuông vức bốn thước đơn sơ với bộ Ðại Tạng Kinh, thế nhưng đã ấp ủ một Thiền tăng nghèo quyết nhận lại cho kỳ được hạt châu vô giá của chính mình.

Rằm tháng tư năm Mậu Thân (1968), Hòa thượng Thích Thanh Từ tuyên bố nhập thất vô hạn định với lời kiên quyết: “Nếu đạo không sáng, thề không ra thất.” Thế là cửa sài đôi cánh khép, toàn thể môn nhân quy ngưỡng lên non một lòng mong đợi.

Tháng 7 năm 1968, ông đã liễu đạt lý sắc không, thấu suốt thật tướng Bát-nhã. Từ con mắt Bát-nhã trông qua Tạng kinh, lời Phật, ý Tổ đã được khai thông.

Giáo lý Ðại thừa và thâm ý nhà Thiền đã được Hòa thượng Thích Thanh Từ khám phá từ công phu thiền định của ông.

Ngày 8 tháng 12 năm 1968, Hòa thượng Thích Thanh Từ tuyên bố ra thất giữa bao niềm hân hoan của Tăng Ni, Phật tử trên khắp cả nước. Nước cam lộ từ đây rưới khắp, suối từ bi từ đây tuôn chảy.

Nơi đây, đánh dấu một giai đoạn chuyển mình, một bước ngoặc lớn trong cuộc đời tu của vị Hòa thượng rất được yêu quý này.

Hoài bão tu Thiền đã thai nghén bao năm trong thầm lặng đơn độc của Người, đến đây mới thật sự có điểm khởi phát và lớn dậy, để sau này Phật giáo Việt Nam vinh dự đón một ngôi sao sáng mở ra trang lịch sử Thiền sử Việt Nam rực rỡ huy hoàng nhất vào cuối thế kỷ 20.

Vai trò Hòa Thượng Thích Thanh Từ đã nắm giữ

Năm 1960 – 1966: Thiền Sư Thích Thanh Từ đã giữ các chức vụ trong Ban Hoằng pháp Giáo hội Tăng già Nam Việt như sau:

  • Phó vụ trưởng Phật học vụ, sau đó là Vụ trưởng Phật học vụ.
  • Quản viện kiêm giáo sư Phật Học viện Huệ Nghiêm.
  • Giảng sư các phật học đường Dược Sư, Từ Nghiêm.
  • Giảng sư Đại Học Vạn Hạnh.
  • Tháng 11 năm 2017, Đại hội Đại biểu Phật giáo toàn quốc Giáo hội Phật giáo Việt Nam lần thứ VIII đã suy tôn Trưởng lão Hòa thượng Thích Thanh Từ vào ngôi vị Phó pháp chủ Hội đồng Chứng minh Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

Lịch sử phát triển thiền thông của Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Hòa Thượng Thích Thanh Từ là đã đặt nền móng cho thiền tông. Ông đã đóng góp vào các dấu mốc phát triển:

  • Năm 1966 – 1968, Thiền Sư Thích Thanh Từ xin phép Hòa thượng Bổn sư được nghỉ việc Giáo hội, tìm chỗ ẩn tu tại núi Tương Kỳ tại Vũng Tàu, dựng Pháp Lạc Thất dốc chí tu hành cho đến sáng đạo.
    Mùng 8 tháng 12 năm Mậu Thân, Thích Thanh Từ ra khỏi thất và tuyên bố “đã đến lúc làm Phật sự”.
  • Năm 1970: Thành lập Tu Viện Chơn Không trên núi Tương Kỳ, Vũng Tàu, mở khóa tu Thiền đầu tiên với 10 thiền sinh.
  • Năm 1974: Thành lập Thiền Viện Bát Nhã và Linh Quang cũng tại Vũng Tàu.
  • Năm 1975 trở đi: Phát triển các Thiền Viện mang tên CHIẾU: Thường Chiếu (1974), Viên Chiếu (1975), Huệ Chiếu (1979), Linh Chiếu (1980), Phổ Chiếu (1980), Tịch Chiếu (1987), Liễu Đức (1986).
  • Năm 1993: Thành lập Thiền Viện Trúc Lâm Phụng Hoàng trên núi Phụng Hoàng, Đà Lạt.
  • Năm 2002: Trùng tu Chùa Lân, lập thành thiền Viện Trúc Lâm Yên Tử.
  • Năm 2005, dựng lập Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên.

Đến năm 2013, Thiền Sư Thích Thanh Từ đã xây dựng trên 60 Thiền Viện, Thiền Tự và trên 100 đạo tràng học Phật tu Thiền theo thiền phái Trúc Lâm Việt Nam.

Hòa Thượng Thích Thanh Từ

Danh sách các thiền viện đã được Hòa thượng Thích Thanh Từ thành lập

Thiền sư – Hòa thượng Thích Thanh Từ là người có công rất lớn trong việc khôi phục dòng thiền Trúc Lâm Yên Tử mà chúng ta biết đến ngày nay.

Bên cạnh đó, ông cũng là người thành lập nên rất nhiều các thiền viện khác nhau trên khắp cả nước cũng như ở nước ngoài, làm nơi hướng dẫn tu hành và giáo hóa Phật pháp đến với tất cả mọi người. sau đây là danh sách cụ thể các thiền viện của ông:

  • Thiền viện Chân Không, núi Tương Kỳ – Vũng Tàu, thành lập vào ngày 15 tháng 4 năm 1971; dời về Thường Chiếu năm 1986, được phép tái thiết năm 1995.
  • Thiền viện Thường Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 8 năm 1974.
  • Thiền viện Viên Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 4 năm 1975.
  • Thiền viện Huệ Chiếu, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành lập tháng 4 năm 1979.
  • Thiền viện Linh Chiếu, Long Thành – Đồng Nai, thành lập tháng 2 năm 1980.
  • Thiền viện Phổ Chiếu, Bà Rịa – Vũng Tàu, thành lập tháng 6 năm 1980.
  • Thiền viện Tịch Chiếu, Long Hải, thành lập tháng 7 năm 1987.
  • Thiền viện Liễu Đức, Long Thành – Đồng Nai.
  • Thiền viện Trúc Lâm Đà Lạt, thành lập tháng 4 năm 1993.
  • Chùa Lân – Thiền viện Trúc Lâm Yên Tử, 2002.
  • Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, Xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc, thành lập ngày 27 tháng 11 năm 2005
  • Thiền viện Tuệ Quang, Linh Trung, Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
  • Thiền viện Hương Hải, Long Thành – Đồng Nai.
  • Thiền viện Đạo Huệ, Long Thành – Đồng Nai.
  • Thiền viện Tuệ Thông, Long Thành – Đồng Nai.
  • Thiền viện Đại Đăng, Bonsall, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2001.
  • Thiền viện Quang Chiếu, Fort Worth, Texas, Hoa Kỳ, thành lập năm 2019.
  • Thiền viện Bồ Đề, Boston, Hoa Kỳ, thành lập năm 2006.
  • Thiền viện Diệu Nhân, Sacramento, California, Hoa Kỳ, thành lập năm 2002.
  • Thiền tự Vô Ưu, San Jose, California, Hoa Kỳ.
  • Thiền viện Trúc Lâm Minh Chánh, Renton, Washington, Hoa Kỳ, thành lập năm 2003.
  • Thiền viện Chánh Tâm, Anaheim, California, Hoa Kỳ.
  • Thiền viện Trúc Lâm Hoa Từ Mesa, Arizona, Hoa Kỳ.
  • Thiền viện Chân Giác, Fullerton, California, Hoa Kỳ.
  • Thiền viện Chân Tâm, Oklahoma City, Oklahoma, Hoa Kỳ.
  • Thiền tự Đạo Viên, Québec, Canada, thành lập năm 2002.
  • Thiền tự Thường Lạc – Pháp.
  • Thiền tự Pháp Loa – Úc.
  • Thiền tự Hiện Quang – Úc.
  • Thiền tự Hỷ Xả – Úc.
  • Thiền viện Tiêu Dao – Úc.
  • Thiền tự Tuệ Căn – Úc.
  • Thiền viện Trúc Lâm Trí Đức – Xã An Phước, huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai. Khánh thành ngày 16 tháng 1 năm 2011
  • Thiền Viện Phúc Trường – Tp.Thủ Dầu Một. Lạc thành ngày 16/05/2013
  • Thiền Viện Trúc Lâm Thanh Nguyên – xã Tam Lập, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương. khánh thành ngày 7/09/2014
  • Từ Đường Trúc Lâm – xã Tích Thiện, huyện Trà Ôn, tỉnh Vĩnh Long. khánh thành ngày 23/11/2015.

Ngoài ra, Hòa thượng Thích Thanh Từ cũng đã góp sức trùng tu hai Tổ đình Phật Quang và Phước Hậu, Trà Ôn, Vĩnh Long. Ông còn giảng giải và dịch rất nhiều bộ Kinh, Luận và Sử từ Hán văn sang Việt văn.

Đồng thời, ông cũng giảng giải rất nhiều bài pháp phổ thông cho Tăng Ni và Phật tử trên khắp cả nước.

Các quốc gia Hòa thượng Thích Thanh Từ đã đi qua

Hòa thượng Thích Thanh Từ đã đi du hóa và thăm viếng nhiều nước:

  • Campuchia (1956)
  • Ấn Ðộ, Sri Lanka và Nhật Bản (1965)
  • Trung Quốc (1993)
  • Pháp (1994, 2002)
  • Thụy Sĩ (1994)
  • Indonesia (1996)
  • Canada (1994, 2002)
  • Hoa Kỳ (1994, 2000, 2001, 2002)
  • Úc (1996, 2002).

Các tác phẩm của Hòa thượng Thích Thanh Từ

Hòa thượng Thích Thanh Từ đã đóng góp cho thiền tông và Phật giáo những tác phẩm:

Kinh

  • Bát-nhã Tâm Kinh giảng giải (1998)
  • Kinh Bát Đại Nhân Giác giảng giải (1997)
  • Kinh Bát – nhã giảng giải (2000)
  • Kinh Diệu Pháp Liên Hoa giảng giải (1993/2000)
  • Kinh Kim Cang giảng giải (1997)
  • Kinh Lăng-già Tâm Ấn (dịch 1993/1997)
  • Kinh Thập Thiện giảng giải (1993/1998)
  • Kinh Viên Giác giảng giải (2000)

Luận

  • Bích Nham Lục (dịch 1995/2002)
  • Kinh Pháp Bảo Đàn giảng giải (1993/1999)
  • Thiền Căn Bản (dịch 1993/1999) (Pháp Yếu Tu Tập Tọa Thiền Chỉ Quán (dịch 1963), Tọa Thiền Tam-muội (dịch 1961) Lục Diệu Pháp Môn (dịch 1962)
  • Thiền Đốn Ngộ (dịch 1973/1999) (Thiền Tông Vĩnh Gia Tập (dịch 1974), Đốn Ngộ Nhập Đạo Yếu Môn (dịch 1971), Truyền Gia Bảo Thiền Tông Trực Chỉ, Tọa Thiền Dụng Tâm Ký, Tham Thiền Yếu Chỉ (dịch 1962)
  • Thiền Sư Thần Hội giảng giải (2001/2002) Hiển Tông Ký (dịch và giảng 1993)

Sách viết về thiền

  • Thiền Tông Việt Nam Cuối Thế Kỷ 20 (1992/1998)
  • Thiền sư Việt Nam (1991/1995/1999).

Trên đây là một số thông tin về Hòa Thượng Thích Thanh TừĐồ Thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về tiểu sử thiền sư Thích Thanh Từ.

Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các thông tin khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tôi nhé!

Xem thêm sản phẩm của chúng tôi:

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *