Chùa Ngũ Xã hay còn gọi là chùa Thần Quan là một ngôi chùa ở thủ đô Hà Nội. Chùa được xây dựng vào thời hậu Lê, giữa thế kỷ XVIII. Chùa thờ Phật và thờ Thiền sư Minh Không, tục truyền Thiền sư Minh Không là vị tổ nghề đúc đồng. Hôm nay hãy cùng mình tìm hiểu thêm về ngôi chùa này nhé!
Địa chỉ chùa Ngũ Xã
Chùa Ngũ Xã tên chữ là Thần Quang tự hay Phúc Long tự nằm ở làng Ngũ Xã (phố Ngũ Xã), quận Ba Đình, Hà Nội.
Chùa Ngũ Xã đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch sử – văn hóa quốc gia năm 1995.
Chùa được dựng vào thời Hậu Lê, thế kỷ 18, thờ Phật và ông tổ nghề Đúc đồng Nguyễn Minh Không nên lấy tên Thần Quang theo tên một số chùa do vị quốc sư này sáng lập như chùa Cổ Lễ (Nam Định), chùa Keo (Thái Bình),… Chùa thuộc hệ phái Bắc tông.
Lịch sử xây dựng chùa Ngũ Xã (chùa Thần Quang)
Xưa kia chùa Ngũ Xã thuộc thôn Ngũ Xã, tổng Thuận Thành, huyện Vĩnh Thuận. Về sau bị hỏa hoạn nên năm 1949 Hòa thượng Thích Mật Đắc cho xây lại và hoàn thành sau 3 năm thi công. Chùa gồm hai toà nhà hai tầng liền kề hình “chữ nhị” thông với nhà tả vu giáp đài tưởng niệm liệt sĩ và lưng đình Ngũ Xã. Năm 1952, Hòa thượng Thích Mật Đắc cho xây dựng lại hoàn toàn theo kiến trúc hiện đại.
Tượng đức Phật A Di Đà bằng đồng ở chánh điện là pho tượng đồng lớn ở nước ta hiện nay. Tượng được đúc từ năm 1949 đến năm 1952, cao 3,95m, hai đầu gối cách nhau 3,60m, chu vi 11,60m, nặng 10 tấn. Tòa sen có 96 cánh, cao 1,45m, chu vi 15m, nặng 3,9 tấn. Chùa còn có lư hương bằng đồng nặng 300 kg, cao 0,76m và hai cây đèn bằng đồng, mỗi cây nặng 300 kg, cao 1,2m. Chùa còn lưu giữ 16 bia đá dựng từ năm 1919 đến năm 1947.
Tổng quan kiến trúc chùa Ngũ Xã (chùa Thần Quang)
Chùa hướng về phía nam và cửa chính của nó mở ra phố Ngũ Xã. Cổng chính được xây dựng theo kiểu hai tầng tám mái lợp ngói ống, với các diềm cổ trên bốn mặt, trang trí bằng các tượng đắp nổi. Cửa chính có hình dạng vuông, gồm 6 cánh gỗ. Mỗi bên của cổng chính có một con sư tử đá trông chầu bậc tam cấp và một bảo tháp nhỏ 9 tầng được gắn lên cột trụ của bức tường hoa. Hai cổng phụ cũng được xây dựng theo cùng kiểu nhưng thấp hơn và không có các trang trí như cổng chính, chỉ có câu đối.
Ngay sau cổng chính là một khu vườn non bộ nhỏ, được sử dụng như bình phong cho 13 bậc thềm dẫn lên tới hàng hiên rộng mở, nối vào các gian thờ ở tầng trên. Hai bên thềm có đặt đôi tượng rồng đá uốn khúc, với miệng kẹp ngọc. Mặc dù không gian chùa không rộng lớn, diện tích sử dụng lại khá rộng do được thiết kế hoàn toàn theo kiến trúc hiện đại, với kết cấu bằng bê tông cốt thép cho phép chịu tải trọng nặng và tăng chiều cao.
Tầng trên của chùa gồm 5 gian, tất cả đều có cửa võng, trần cao và sàn lát gỗ bóng lộn. Gian ở giữa là chính điện thờ Tam bảo, hai gian hành lang dẫn vào toà thiêu hương và hậu cung có đặt cặp tượng Hộ pháp đứng trấn. Còn lại, gian bên trái của tầng trên dành cho thờ Thánh Tăng, gian bên phải dành cho thờ Đức Ông. Trên mức cao hơn có các cửa sổ nhỏ để lấy ánh sáng tự nhiên, và ở dưới, hai bên đầu hồi được đặt để đựng hương án thờ gia tiên và bày đồ tế khí, phục vụ cho các buổi lễ cầu siêu và giải thoát linh hồn người đã khuất.
Trong chính điện, có một tượng Phật A-di-đà khổng lồ, được biết đến như một công trình nổi tiếng với nhiều mặt trái. Nghệ nhân Nguyễn Khắc Hiếu đã tạo mẫu, và thợ cả Nguyễn Văn Tùng đã làm khuôn và chỉ huy quá trình đúc trong quá trình xây dựng lại chùa. Ngoài tượng đồ đồng được đóng góp bởi những tín đồ và du khách từ khắp nơi, còn có tượng đài đặc biệt của Toàn quyền Đông Dương Paul Bert và phiên bản tượng Nữ thần Tự do.
Hai tượng đài này đại diện cho sự khai hoá của Pháp, nhưng đã bị nhân dân đánh đổ vào mùa xuân năm 1945. Trần Văn Lai, người Việt đầu tiên giữ chức thị trưởng Hà Nội vào thời điểm đó, đã cho chúng được chuyển vào kho từ công viên.
Ngoài giá trị lịch sử và nghệ thuật, tượng Phật này còn phá vỡ kỷ lục về tượng đồng lớn nhất trong thế kỷ 20. Tượng Phật ngồi trong tư thế thiền, được làm từ đồng màu đen, cao 3,95 mét, khoảng cách giữa hai đầu gối là 3,60 mét, chu vi là 11,60 mét, và nặng 10 tấn. Bệ tượng được tạo thành từ một tòa sen với 96 cánh, cao 1,45 mét, chu vi là 15 mét, và nặng 3,9 tấn.
Còn có một hương án phụ được đặt để thờ Quán thế âm Bồ tát, nằm ở góc cuối của hàng hiên, sát bên bậc thang dẫn sang toà nhà bên phải. Trên tầng trên của toà nhà này, có 3 gian thờ với sàn cao hơn nhưng trần thấp hơn so với khu nhà chính. Gian giữa dành để thờ các Thánh Mẫu, gian bên trái dành cho thờ Quan Tam thánh, và gian bên phải dành cho thờ sư Tổ. Cả nhà khách và nhà Tăng đều nằm ở tầng dưới, với lối vào liền kề sân ngắn. Một cây muỗng già uốn lượn qua hiên gác, treo một quả chuông nhỏ và trải ra che phủ bóng mát lên mái chùa.
Chùa lưu giữ được 16 tấm bia đá được xây dựng trong giai đoạn từ năm 1919 đến 1947 và may mắn không hề bị hỏng trong đám cháy. Ngoài ra, còn có một số sản phẩm thủ công mỹ nghệ quý giá khác, đáng chú ý nhất là bộ lư hương làm từ đồng, nặng 300kg, cao 0,76m, và cặp chân đèn cũng làm bằng đồng, mỗi cây nặng 300kg, cao 1,2m. Ngôi chùa cùng với các hiện vật bên trong thể hiện tâm huyết của những Phật tử và tài năng của các nghệ nhân đúc đồng qua nhiều thế hệ ở đây.
Di tích chùa Ngũ Xã (chùa Thần Quang)
Chính điện có pho tượng Phật A-di-đà khổng lồ, một công trình nổi tiếng về nhiều mặt. Nghệ nhân Nguyễn Khắc Hiếu tạo mẫu, thợ cả Nguyễn Văn Tùng làm khuôn và chỉ huy việc đúc trong thời gian xây dựng lại chùa. Ngoài đống đồ đồng do những thiện nam tín nữ và khách thập phương cúng góp còn có tượng cố Toàn quyền Đông Dương Paul Bert và phiên bản tượng Nữ thần Tự do. Hai tượng đài biểu trưng sự khai hoá của Pháp bị nhân dân kéo đổ vào mùa xuân 1945 và Trần Văn Lai thị trưởng người Việt đầu tiên của Hà Nội hồi ấy đã cho đem từ công viên bỏ vào kho.
Ngoài giá trị lịch sử và mỹ thuật, pho tượng này còn phá kỷ lục về tượng đồng lớn nhất vào giữa thế kỷ 20. Tượng Phật ngồi ở tư thế toạ thiền, làm bằng đồng đen, cao 3,95m, hai đầu gối cách nhau 3,60m, chu vi 11,60m, nặng 10 tấn.
Còn có một hương án phụ thờ Quán thế âm Bồ tát đặt ở góc cuối hàng hiên, cạnh bậc thang thông sang toà nhà bên phải. Trong tầng trên của nhà này có 3 gian thờ, sàn cao hơn nhưng trần thấp hơn khu nhà chính. Gian giữa thờ các Thánh Mẫu, gian bên trái thờ Quan Tam thánh, gian bên phải thờ sư Tổ. Nhà khách và nhà Tăng đều ở tầng dưới, lối vào liền với cái sân ngắn. Một cây muỗm già vượt qua hiên gác treo quả chuông nhỏ và vươn lên toả bóng xuống mái chùa.
Chùa lưu giữ được 16 tấm bia đá được dựng trong giai đoạn từ năm 1919 đến 1947 và may mắn không hề bị hỏng khi xảy ra hoả hoạn. Ngoài ra còn có một số đồ thủ công mỹ nghệ quý giá khác, đáng kể nhất là bộ lư hương bằng đồng nặng 300kg, cao 0,76m và cặp chân đèn cũng bằng đồng, mỗi cây nặng 300kg, cao 1,2m. Ngôi chùa cùng các hiện vật bên trong đã thể hiện tâm huyết của Phật tử và tài năng của các nghệ nhân đúc đồng nhiều thế hệ ở nơi đây.
Trên đây là một số thông tin về Chùa Ngũ Xã mà Đồ thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn về một ngôi chùa nằm ở Hà Nội. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về ngôi chùa này nhé!
Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các ngôi chùa khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tớ nhé.