Chùa Dận Bắc Ninh có địa chỉ ở đâu? Nơi đây có lịch sử hình thành thế nào? Kiến trúc ngồi chùa này ra sao? Truyền thuyết về chùa Dận thế nào?
Sau đây hãy cùng Đồ Thờ Hưng Vũ khám phá về ngôi chùa mà gắn liền với lịch sử vua Lý Công Uẩn nhé!
Giới thiệu chùa Dận
Chùa Dận (tên chữ là Ứng Tâm tự) là một trong những ngôi chùa cổ, được xây dựng lâu đời tại Bắc Ninh – nơi hình thành tín ngưỡng đạo Phật đầu tiên tại nước ta. Chính vì vậy, nơi đây là địa điểm tâm linh vô cùng linh thiêng mà mỗi tín đồ Phật Giáo cũng như du khách thập phương muốn tới vãn cảnh, cúng lễ mỗi khi có dịp về với vùng đất Kinh Bắc.
Chùa được xây dựng từ thế kỷ thứ 8 với tên chữ là Ứng Tâm tự. Nhân dân sống ở quanh chùa luôn thành kính gọi chùa với tên Cổ Pháp là chùa Ứng Tâm hay chùa Dận. Đây là nơi tu hành của các thiền sư có tiếng trong lịch sử là Định Không, Vạn Hạnh, Lý Khánh Vân…
Chùa Dận được xem như niềm tự hào của mỗi người dân xứ Kinh Bắc bởi những giá trị lịch sử, văn hóa mà nơi đây đem lại.
Chùa Dận ở đâu?
Chùa Dận là một ngôi chùa tọa lạc tại phố chùa Dận, đường Trần Phú phường Đình Bảng, thành phố Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, ngay sát quốc lộ 1 cũ.
Cổng chính hai tầng trông ra ruộng lúa xanh mướt. Khuôn viên chùa Dận chia làm ba khu chính. Tòa tam bảo phía trước chùa gồm năm gian hai tầng cùng hai gian hậu cung.
Có một điều khác biệt của tòa tam bảo so với những ngôi chùa khác ở Việt Nam. Đó là mái chùa rất cao, ánh sáng tự nhiên tràn vào nhiều nên trong chùa rất sáng.
Vị trí chùa Dận Bắc Ninh
Lịch sử chùa Dận
Theo truyền thuyết, vào ngày 12-2 năm Giáp Tuất 974 (tức ngày 8-3-974 theo dương lịch), Lý Công Uẩn đã được hoàng thái hậu Phạm Thị sinh ra tại ngôi chùa này.
Truyền thuyết kể đêm hôm trước trụ trì chùa nằm mơ thấy Long thần báo mộng: “Dọn chùa cho sạch, ngày mai có hoàng đế đến”. Nhưng hôm sau chỉ thấy một thiếu phụ có thai đến nương nhờ. Vài tháng sau, khu tam quan của chùa bỗng rực sáng, hương thơm lan tỏa. Người thiếu phụ kia hạ sinh một bé trai, hai bàn tay hiện lên bốn chữ “sơn hà xã tắc”.
Lúc Lý Công Uẩn được sinh tại chùa cũng là lúc thiền sư Lý Khánh Vân trụ trì. Thiền sư đã nhận nuôi cậu bé và cho mang họ Lý của mình, đặt tên là Công Uẩn. Khi Lý Công Uẩn lên ngôi vua, chùa được mở rộng và sau này được tôn tạo nhiều lần, thờ thân mẫu và dưỡng phụ của vua, thiền sư Khánh Vân.
Chính vì vậy chùa được dân gian gọi là chùa Rặn (tức “rặn đẻ”), rồi dần dần gọi chệch thành chùa Dận. Hiện tại trong gian chính của tòa tam bảo còn ghi rõ: “Đêm 12-2 năm Giáp Tuất ( 8-3-974) tại tam quan chùa Cổ Pháp, bà Phạm Thị đã sinh vĩ nhân Lý Công Uẩn (tức Lý Thái Tổ – người lập ra triều Lý, khai sáng kinh đô Thăng Long – Hà Nội năm 1010)”.
Thời kỳ tiền khởi nghĩa chùa còn là cơ sở cách mạng cho các lãnh tụ của Đảng như Trường Chinh, Hoàng Quốc Việt, Hoàng Văn Thụ…
Cuối năm 1949, chùa bị quân Pháp phá hủy làm đồn bốt. Hiện tại chùa được tu bổ lại trên nền chùa theo kiến trúc cũ. Để kỷ niệm ngày hóa của Lý thánh mẫu Minh Đức Hoàng thái hậu Phạm Thị, chùa Dận tổ chức lễ hội vào ngày mùng 7 tháng giêng hằng năm.
Vào vãn cảnh chúng tôi được bà cụ trông coi, chăm sóc chùa kể chuyện, hướng dẫn đi thăm các gian, đặc biệt là tòa tam bảo, nơi vua Lý Công Uẩn được sinh ra.
Dấy lên trong lòng chúng tôi cũng như du khách thập phương khi thăm ngôi chùa lòng tưởng nhớ vị vua 1.000 năm trước đã có tầm nhìn sâu rộng, chọn Đại La, nay là thủ đô Hà Nội, làm kinh đô mới để mưu tính nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau.
Kiến trúc chùa Dận Bắc Ninh
Khi Lý Công Uẩn lên làm vua đã cho mở rộng chùa và sau này được tôn tạo nhiều lần. Tuy nhiên, vào những năm kháng chiến chống Pháp, chùa đã bị phá hủy để làm đồn bốt. Cho đến ngày nay, chùa đã được phục dựng và cải tạo khang trang, hiện tọa lạc tại Đình Bảng, Từ Sơn, Bắc Ninh.
Tòa tam bảo của chùa ngày nay được phục dựng lại trên nền chùa cũ, gồm 5 gian hai tầng cùng 2 gian hậu cung. Phần mái tòa Tam bảo được thiết kế rất cao nên có thể thu được ánh sáng tự nhiên, giúp không gian bên trong vô cùng sáng sủa, thoáng đãng.
Trước đây, ngôi chùa có nhiều pho tượng độc đáo, quý hiếm, tuy nhiên sau cuộc tàn phá của thực dân Pháp, chúng đã bị thiệt hại, hư hỏng đi phần nào. Ngày nay, những bức tượng đã được làm lại, thờ tượng Phật như Phật Tam Thế, Phật Di Đà, Phật Thích Ca sơ sinh… Ngoài ra hai bên là 2 bức tượng hộ pháp, Bát Bộ Kim Cương mỗi bên có 4 vị….
Mặt sau chùa bên trái là ngôi đền gồm 3 gian có tên gọi đền Lý Triều Quốc Mẫu. Đây là nơi thờ thân sinh Lý Công Uẩn là Lý Thánh Mẫu Minh Đức Hoàng Thái Hậu Phạm Thị. Phía bên phải đang tiến hành tôn tạo, phục dựng công trình cũ của chùa.
Lễ hội chùa Dận
Chùa Dận Bắc Ninh mở hội vào ngày mùng 7 tháng Giêng hằng năm, đón tiếp hàng nghìn lượt người về hành hương từ khắp mọi miền đất nước.
Khi đến ai cũng sẽ sắm sửa mâm lễ để thành tâm dâng hương. Khi dâng lễ, lưu ý nên chọn những đồ chay, thanh tịnh như hoa quả, trầu cau, xôi chè… Mâm cỗ như vậy vừa thể hiện tấm lòng thành kính vừa thanh tịnh hợp với nghi lễ của chùa hơn.
Đến chùa Dận nghe giai thoại về vĩ nhân Lý Công Uẩn
Ngay từ khi sinh ra, Lý Công Uẩn đã được dự báo có thiên mệnh hoàng đế với bốn chữ son “sơn hà xã tắc” trong lòng hai bàn tay. Dù chưa lên ngôi nhưng ngay từ nhỏ, Lý Công Uẩn đã có khả năng “đày ải” cả Thần, Phật vì tội mách thầy phạt ông.
Sinh ra và lớn lên tại chùa Dận hay còn gọi là chùa Cổ Pháp hoặc chùa Lục Tổ. Tên gọi chùa Dận được hình thành khi Lý Công Uẩn ra đời, sáng lập ra triều Lý. Ban đầu nhân dân gọi là chùa Rặn (rặn đẻ) sau đọc chệch thành chùa Dận. Ngày nay, nhân dân quanh vùng thành kính gọi tên chùa Cổ Pháp là chùa Ứng Tâm hay chùa Dận.
Lý Công Uẩn sinh ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất (8/3/974) tại cửa tam quan của chùa Dận. Sinh ra đã không có cha, chỉ biết rằng mẹ ông là Phạm Thị, sinh ông xong thì chết. Theo truyền thuyết, cha của Lý Công Uẩn là một người nghèo, đi làm thuê ở chùa Tiên Sơn (An Phong, Bắc Ninh) phải lòng một tiểu nữ, làm nàng có thai.
Nhà chùa thấy thế đuổi đi, hai vợ chồng dẫn nhau đi đến một khu rừng, mệt mỏi ngồi nghỉ. Người chồng khát nước, liền đến cái giếng giữa rừng uống, sảy chân chết đuối.
Người vợ đến nơi thì giếng đã lấp, không còn chỗ để đi liền đến xin tá túc ở chùa Ứng Tâm (chùa Dận) gần đó. Thấy người vợ đến, sư trụ trì chùa liền đón tiếp nhiệt tình bởi trước đó, ông đã được thần báo mộng: “Ngày mai dọn chùa cho sạch để đón hoàng đế đến”.
Tuy nhiên lại có thuyết khác nói rằng ông là con của Lý Khánh Văn, trụ trì chùa Cổ Pháp. Theo thuyết này, mẹ ông là một bà góa chồng đến làm thuê ở chùa Cổ Pháp, sau đó đi lại với trụ trì chùa là Lý Khánh Văn rồi mang thai. Khi biết Phạm Thị mang thai, Lý Khánh Văn đuổi bà đi nơi khác.
Sau khi sinh con, bà bọc con trong manh áo cũ rồi bỏ ngoài cửa tam quan chùa. Nghe thấy tiếng khóc, Lý Khánh Văn ra nhặt đem vào nuôi và đặt tên là Lý Công Uẩn. Thế nên lúc bấy giờ có câu ca dao châm biếm nhẹ nhàng Lý Khánh Văn: “Con ai đem bỏ chùa này. Nam mô di Phật con thầy, thầy nuôi”.
Đây chỉ là những tích xưa ra đời để giải thích sự xuất hiện của vĩ nhân Lý Công Uẩn. Cho đến nay, chưa có ai tìm được đáp án chính xác cho nguồn gốc xuất thân của vị vĩ nhân này. Chỉ biết rằng đây là người “mở màn” cho triều đại nhà Lý và là người có công lớn trong việc chuyển kinh thành từ Cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) về Thăng Long (Hà Nội).
Sinh ra không có cha lại vừa mất mẹ, nên ông nhận được tình yêu thương và dạy dỗ hết lòng của người cha nuôi Lý Khánh Văn. Mới 6 tuổi, Lý Công Uẩn đã tinh thông khá nhiều sách vở, được coi là một chú bé thông minh, khôi ngô tuấn tú và khá rắn rỏi. Thế nhưng, ngoài sự thông minh ấy, Lý Công Uẩn lại là một cậu bé vô cùng tinh nghịch và mải chơi. Có lần, cha nuôi sai cậu đem oản lên cúng Hộ Pháp, thay vì thành tâm vâng lời, chú liền khoét oản ăn trước. Đến đêm, Hộ Pháp báo mộng cho Lý Khánh Văn biết khiến cậu bị cha nuôi mắng.
Tức giận, Lý Công Uẩn lên chùa đánh cho Hộ Pháp ba cẳng tay, sau đó viết vào sau lưng pho tượng mấy chữ: “Đày ba ngàn dặm”. Đêm hôm ấy, Lý Khánh Văn lại thấy Hộ Pháp đến báo mộng với vẻ mặt buồn rầu và ngỏ lời từ biệt: “Hoàng đế đã đày tôi đi xa, xin có lời chào ông”.
Sáng hôm sau, Lý Khánh Văn lên chùa xem pho tượng thì thấy sau lưng quả nhiên có mấy chữ “Đồ tam thiên lý” thật. Ông liền sai chú tiểu lấy nước rửa nhưng không sao rửa sạch. Cuối cùng, ông phải bảo Lý Công Uẩn vào rửa thì chú bé chỉ lấy ngón tay xoa xoa là sạch ngay.
Lớn thêm chút nữa, Lý Công Uẩn vẫn không thay đổi tính nết là bao. Thay vì phải chăm chỉ học hành, cậu bé Công Uẩn lại chỉ ham chơi và luôn tìm cách trốn học. Ngày ấy, khi được gửi sang chùa Tiêu Sơn của thiền sư Vạn Hạnh (anh trai Lý Khánh Văn) để học văn học và tài kinh luân của thầy, Lý Công Uẩn luôn tỏ rõ sự thông minh và nghịch ngợm của mình trong mọi hoàn cảnh.
Đến cả khi bị trói ở cổng tam quan, cậu vẫn tức cảnh làm thơ: “Thiên vi khâm chầm địa vị thiên/ Nhật nguyệt đồng song đốt ngã miên/ Dạ thâm bất cảm trăng thân túc/ Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên”, dịch là: “Trời làm màn gối, đất làm chiên. Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên.
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi/ Chỉ sợ sơn hà, xã tắc nghiêng”. Nghe xong câu thơ này, nhà sư Vạn Hạnh biết cậu có khí chất đế vương nên ra sức dạy dỗ và lo toan cho Công Uẩn làm nên sự nghiệp lớn.
Vị vua được lòng “thiên hạ”
Thiền sư Vạn Hạnh thường bảo với mọåi người: “Đứa bé này không phải người thường, lớn lên có thể phò nguy, gỡ rối, làm minh chủ trong thiên hạ”. Do vậy, những giai thoại ly kỳ về Lý Công Uẩn ngày càng nhiều. Sinh ra đã khác người, cộng thêm trí tuệ siêu phàm của mình, từ một chức quan nhỏ, ông làm tới chức Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ (dưới triều Tiền Lê đây là một chức quan to trong hàng võ chỉ người trong hoàng tộc mới được làm). Đây cũng là bước ngoặt đưa ông trở thành vị hoàng đế đầu tiên của nhà Lý.
Bé thì tinh nghịch nhưng khi lớn lên, đặc biệt khi làm quan, ông luôn là vị quan tốt, được mọi người yêu mến. Có thể nói Lý Công Uẩn là người sống vô cùng trung nghĩa, điều này được thể hiện qua hành động ôm xác Lê Trung Tông mà khóc; Năm 1005, Lê Đại Hành mất, các con trai tranh giành ngôi báu, Lê Trung Việt giành được ngôi trở thành vua Lê Trung Tông.
Thế nhưng chỉ được 3 ngày, vị vua này bị em trai là Lê Long Đĩnh giết hại cướp ngôi. Lúc ấy các quan chạy hết, chỉ có Lý Công Uẩn đến ôm xác Lê Trung Tông mà khóc.
Hành động này của ông được Lê Long Đĩnh vô cùng nể phục, khen là trung nghĩa và tiếp tục sử dụng, phong cho ông chức Tướng quân phó chỉ huy sứ, sau là Tả thân vệ Điện tiền chỉ huy sứ. Dưới thời cai trị của Lê Long Đĩnh, lòng dân vô cùng oán hận bởi ông vua tàn bạo và ngang ngược coi dân đen như cỏ rác này. Thế nên sau khi Lê Long Đĩnh chết, Lý Công Uẩn được triều thần khanh sỹ tôn lên làm vua.
Trên đây là thông tin về chùa Dận Bắc Ninh mà Đồ Thờ Hưng Vũ đã tổng hợp. Hy vọng qua nội dung trên các bạn sẽ hiểu hơn về giai thoại của ngôi chùa này
Nếu quan tâm tới các công trình văn hóa tâm linh khác thì hãy theo dõi bài viết mới của chúng tôi nhé!
Có thể bạn quan tâm: