Chùa Tây Phương hay tên chữ “Sùng Phúc tự” là di tích thuộc loại hình kiến trúc nghệ thuật, nằm trên địa phận xã Thạch Xá, huyện Thạch Thất, cách trung tâm thành phố Hà Nội. Chùa Tây Phương là ngôi chùa cổ nổi tiếng ở Hà Nội, thu hút rất đông du khách tới thăm quan, bái Phật. Năm 2014, được xếp hạng là Di tích quốc gia đặc biệt. Vậy hôm nay, hãy cùng mình tìm hiểu xem chùa Tây Phương có những điểm gì đặc biệt nhé!
Giới thiệu chung về chùa Tây Phương
Chùa Tây Phương hay còn được gọi là Sùng Phúc Tự, đây là tên chữ cổ của chùa , mang hàm nghĩa Tự là chùa, Sùng Phúc là nơi Đức Phật luôn hướng những điều thiện điều phúc đức. Tọa lạc ở huyện Thạch Thất, Hà Nội, chùa Tây Phương được biết đến là một trong những loại hình kiến trúc nghệ thuật độc đáo, không chỉ thế nơi đây còn thu hút du khách bởi vẻ đẹp huyền bí và tĩnh lặng của núi rừng, sự linh thiêng hội tụ tinh hoa đất trời.
Theo các nhà Sử học, ngôi chùa được xây dựng vào khoảng thế kỷ 8, sau nhiều lần trùng tu và cải tạo, ngôi chùa mang hình dáng kiến trúc như ngày nay.
Phương tiện di chuyển
- Với phương tiện cá nhân
Từ Hà Nội, mình di chuyển theo hướng đường Trần Duy Hưng – Đại lộ Thăng Long. Khi đến cầu vượt ngã tư Đại lộ Thăng Long – Thạch Thất, Quốc Oai thì rẽ trái vào Quốc Oai. Sau đó rẽ phải rồi đi thêm 5km, đến ngã tư Thạch Xá sẽ thấy biển chỉ đường vào chùa Tây Phương. Từ đây, rẽ trái và đi thêm khoảng 4-5km sẽ đến cổng chùa.
- Với phương tiện công cộng
Bạn lựa chọn tuyến xe buýt số 89: xuất phát từ bến xe Yên Nghĩa qua Thạch Thất, tới bến xe Sơn Tây và xuống điểm dừng chùa Tây Phương.
Giá vé
Giá vé vào chùa chung cho cả khách nội địa và khách quốc tế là 10.000 VND/người chưa bao gồm phí gửi xe. Ngoài ra, theo mình được biết thì chùa Tây Phương cũng áp dụng không thu phí tham quan vào ngày di sản văn hóa 23/11, ngày 30, mùng 1, mùng 2, mùng 3 tết nguyên đán.
Lịch sử hình thành chùa Tây Phương
Một số sách báo viết về chùa Tây Phương cho rằng được xây dựng vào thời nhà Mạc, nhưng không chứng minh. Niên đại này có thể tin được, vì đầu thế kỷ 17 vào những năm 30 chùa đã phải sửa chữa lớn, hơn nữa trong chùa còn hai tấm bia đều bị mờ hết chữ nhưng còn đọc được rõ tên bia ở mặt ngoài là Tín thí và Tây Phương sơn Sùng Phúc tự thạch bi (mặt bia kia áp vào tường hồi toà chùa giữa nên không đọc được), các hoa văn trang trí thuộc phong cách nghệ thuật cuối thế kỷ 16 sang đầu thế kỷ 17.
Năm 1632, vào đời vua Lê Thần Tông, chùa xây dựng thượng điện 3 gian và hậu cung cùng hành lang 20 gian. Khoảng những năm 1657-1682, Tây Đô Vương Trịnh Tạc lại cho phá chùa cũ, xây lại chùa mới và tam quan. Đến năm 1794 dưới thời nhà Tây Sơn, chùa lại được đại tu hoàn toàn với tên mới là “Tây Phương Cổ Tự” và hình dáng kiến trúc còn để lại như ngày nay.
Thông tin trên trang web chính thức của tỉnh Hà Tây thì nói chùa được thành lập từ thế kỷ 6-7 nhưng đã trải qua nhiều lần trùng tu.
Chùa Tây Phương thờ ai?
Chùa Tây Phương hiện nay là một quần thể các đơn nguyên, bao gồm các hạng mục sau: Tam quan hạ, Tam quan thượng, Miếu Sơn Thần, Tiền đường, Trung đường, Thượng điện, Nhà tổ, Nhà Mẫu và Nhà khách.
Từ Tam quan hạ phái đi lên 247 bậc đá ong mới đến Tam quan Thượng. Miếu Sơn Thần nằm ở bên trái chùa, tách biệt với khu chùa chính. Đây là đơn nguyên vừa đóng vai trò là nơi thờ thần núi, vừa là nhà thờ Đức Ông, có diện tích khiêm tốn với kiến trúc gỗ lợp ngói truyền thống.
Chùa Tây Phương chính sở hữu rất nhiều những bức tượng pháp với những kiệt tác hiếm có trong nghệ thuật điêu khắc tôn giáo. Xung quanh chùa có những bức chạm trổ hoa sen, hoa cúc, rồng phượng, hổ phù vô cùng tinh xảo được làm dưới bàn tay của các nghệ nhân tài hoa ở làng Chàng Sơn – làng nghề mộc nổi tiếng lâu đời.
Có thể kể đến như bộ tượng Tam Thế Phật với 3 pho tượng Quá khứ, Hiện tại và Vị lai; bộ tượng Di đà Tam Tôn, tượng Tuyết Sơn trong thời kỳ khổ hạnh…. 16 pho tượng Tổ với phong cách hiện thực.
Đặc biệt, chùa Tây Phương còn sở hữu 18 pho tượng La Hán với những dáng vẻ, biểu cảm gương mặt khác nhau.
Kiến trúc của chùa Tây Phương
Từ chân núi, qua 237 bậc lát đá ong thì đến đỉnh núi và cổng chùa. Chùa Tây Phương gồm ba nếp nhà song song: bái đường, chính điện và hậu cung.
Mỗi nếp có hai tầng mái kiểu chồng diêm, tường xây toàn bằng gạch Bát Tràng nung đỏ, để trần tạo thành một không khí rất thô sơ mộc mạc, điểm những của sổ tròn với biểu tượng sắc và không; các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen.
Mái lợp hai lớp ngói: mái trên có múi in nổi hình lá đề, lớp dưới là ngói lót, còn gọi là ngói chiếu, hình vuông sơn ngũ sắc như màu áo cà sa xếp trên những hàng rui gỗ làm thành ô vuông vắn đều đặn.
Xung quanh diềm mái của ba tòa nhà đều chạm trổ tinh tế theo hình lá triện cuốn, trên mái gắn nhiều con giống bằng đất nung, các đầu đao mái cũng bằng đất nung đường nét nổi lên hình hoa, lá, rồng phượng giàu sức khái quát và khả năng truyền cảm.
Cột chùa kê trên những tảng đá chạm hình cánh sen. Toàn bộ ngôi chùa toát ra một tính hoành tráng và phóng khoáng phù hợp với triết lý “sắc sắc không không” của nhà Phật.
Nơi đây còn là nơi tập trung những kiệt tác hiếm có của nghệ thuật điêu khắc tôn giáo bao gồm chạm trổ, phù điêu và tạc tượng. Khắp chùa chỗ nào có gỗ là có chạm trổ. Các đầu bẩy, các bức cổn, xà nách, ván long… đều có chạm trổ đề tài trang trí quen thuộc của dân tộc Việt: hình lá dâu, lá đề, hoa sen, hoa cúc, rồng, phượng, hổ phù… rất tinh xảo được tạo ra dưới bàn tay thợ tài hoa của các nghệ nhân làng mộc ngay trong vùng Tổng Nủa, làng truyền thống Chàng Sơn Làng nghề mộc lâu đời và nổi tiếng của xứ Đoài.
Bộ tượng Phật của chùa Tây Phương
Trong chùa có 64 pho tượng cùng với các phù điêu có mặt tại mọi nơi. Các tượng được tạc bằng gỗ mít được sơn son thếp vàng. Nhiều pho được tạc cao hơn người thật như 8 pho tượng Kim Cương và Hộ pháp, cao chừng 3 m, trang nghiêm phúc hậu. Hệ thống tượng ở chùa Tây Phương gồm:
- Bộ tượng Tam Thế Phật với ba pho tượng Phật: Quá khứ, Hiện tại, Vị lai (còn gọi là Tam thân: Pháp thân, Ứng thân và Hóa thân) ngồi ở tư thế tọa thiền, y phục gập nếp đơn giản phủ kín cơ thể, được coi là có niên đại đầu thế kỷ 17.
- Bộ tượng Di-đà Tam Tôn: gồm tượng đức Phật A-di-đà, đứng hai bên là Quan Âm Bồ Tát và Đại Thế Chí Bồ Tát.
- Tượng Tuyết Sơn miêu tả đức Phật Thích ca trong thời kỳ tu khổ hạnh: mỗi ngày ăn một hạt kê, một hạt vừng, tự hành xác để vươn lên thế giới tinh thần sáng láng. Tượng màu đen thẫm khoác áo cà sa mỏng, tay chân gầy khẳng khiu, xương nổi lên trước ngực. Toàn bộ cơ thể chìm trong suy tưởng, mắt trũng sâu, hướng về nội tâm.
- Hai bên tượng Tuyết Sơn có tượng A Nan và Ca Diếp đứng hầu.
- Tượng đức Phật Di lặc tượng trưng cho vị Phật của thế giới cực lạc tương lai. Người mập mạp, ngồi hơi ngả về phía sau, toàn thân toát ra sự thỏa mãn, sung sướng.
- Tượng Văn thù Bồ Tát: đứng chắp tay, chân đi đất, các ngón chân bấm móng xuống mặt bệ.
- Tượng Phổ Hiền Bồ Tát: chắp tay trước ngực, khuôn mặt sáng rộng nổi lên trên tấm thân phủ đầy y phục.
- Tượng Bát bộ Kim Cương, thể hiện trình độ rất cao về nghệ thuật lắp ghép gỗ và cách bố cục, chuyển động của một thân thể mang giáp trụ trong các thế võ.
- Mười sáu pho tượng Tổ với phong cách hiện thực: Đó là Ưu-ba-cầu-đa, Đê-đa-ca, Di-trà-ca, Bà-tu-mật, Phật-đà Nan-đề, Phục-đa-mật-đa, Hiếp Tôn giả, Thương Na Hòa Tu, Mã Minh, Ca-tỳ-ma-la, Long Thụ Tôn giả, La-hầu-la-đa, Tăng-già Nan-đề, Già-gia-xá-đa, Cưu-ma-la-đa, Chà-dạ-đa. Theo một danh sách tên các nhân vật được tạc tượng trong một tài liệu còn lưu truyền ở chùa thì đây là tượng các vị tổ Ấn Độ trong quan niệm của Thiền tông Trung Quốc (xem Nhị thập bát tổ).
Mười tám vị tổ người đứng kẻ ngồi, pho thì ngước mặt lên trời chỉ vào mây khói, pho thì hững hờ với ngoại vật, tì cằm trên đầu gối nhếch môi cười một mình nửa tinh nghịch nửa mỉa mai, có pho vẻ mặt hân hoan tươi tắn, khổ người đầy đặn tròn trĩnh, pho khác có vẻ mặt đăm chiêu lạ thường, lại có pho như đang đắn đo phân bua hay đang thì thầm trò chuyện cùng ai.
Tượng La Hầu La đúng là chân dung một cụ già Việt Nam, thân hình gầy gò, mặt dài, nhỏ, gò má cao, môi mỏng vừa phải. Chưa thấy pho tượng nào diễn tả y phục một cách hiện thực mà lại đẹp đến như thế. Dáng điệu một tay cầm gậy, một tay để trên gối rất thoải mái, đôi bàn tay trông thấy rõ từng đốt xương bên trong. Những người thợ mộc của làng nghề mộc truyền thống Chàng Sơn là tác giả của những kiệt tác tuyệt vời ấy của nền mỹ thuật Việt Nam.
Chùa Tây Phương đã là một công trình kiến trúc tôn giáo đặc sắc tiêu biểu cho mỹ thuật Việt Nam thời Hậu Lê (thế kỷ 17-18).
Năm 1960, nhà thơ Huy Cận đến thăm chùa, đã làm những câu thơ trong bài thơ “Các vị La Hán chùa Tây Phương” rất sống động và gợi cảm về hình tượng những con người đắc đạo mà lòng vẫn trầm ngâm suy tưởng về những khổ đau quần quại của chúng sinh.
Lễ hội chùa Tây Phương
Lễ hội tại chùa thường diễn ra vào những tháng đầu năm âm lịch. Đây là dịp để không chỉ người dân địa phương mà cả du khách thập phương tới dâng hương hành lễ. 2 lễ hội chính tại chùa: Lễ sám hối (6/2 âm lịch) và Lễ hội chính (6/3 âm lịch).
Lễ sám hối chùa Tây Phương Thạch Thất là dịp để con người tự vấn bản thân rồi tự tha thứ cho những lỗi lầm của mình để cõi lòng được thanh thản. Trong những ngày này, người dân sẽ không sát sinh, một lòng thành kính dâng lên cõi Phật những nén hương, cây nến, trà, hoa quả,… những món chay đúng theo tinh thần của nhà chùa.
Lễ hội chính sẽ diễn ra vào ngày mùng 6 tháng 3 âm lịch hàng năm nhưng công tác chuẩn bị thường bắt đầu từ nhiều ngày trước đó. Phần lễ bao gồm các nghi thức tắm tượng, lễ cúng Phật và Chạy đàn. Phần hội là các sinh hoạt văn hóa mang đậm chất xứ Đoài như các trò chơi dân gian kéo co, đánh cờ vật, chọi gà, rối nước,…
Lộ trình tham quan chùa Tây Phương
Chùa Tây Phương hiện nay là một quần thể các đơn nguyên, bao gồm các hạng mục sau: Tam quan hạ, Tam quan thượng, Miếu Sơn Thần, chùa Hạ, chùa Trung, chùa Thượng, Nhà tổ, Nhà Mẫu và Nhà khách.
Tam quan hạ
Quần thể kiến trúc của chùa Tây Phương bắt đầu từ chân núi Câu Lậu, với công trình đầu tiên là Tam quan hạ. Nơi đây là cổng có 3 cửa trong đó cửa chính giữa to và rộng nhất. Tam quan tượng trưng cho ba cách nhìn của Phật giáo bao gồm “hữu quan”, “không quan” và “trung quan”. Trong đó, “hữu quan” là thể hiện cái sắc (giả), là những sự vật hiện hữu trong cõi đời, “không quan” là tượng trưng cho cái không (vô thường) và “trung quan” là thể hiện sự trung dung của cả hai yếu tố sắc và không.
Tam quan thượng
Bước qua cánh cổng tam quan, bạn sẽ leo 237 bậc đá ong để lên được tam quan thượng, đá ong có màu vàng hoặc nâu đỏ, phù hợp với mọi điều kiện thời tiết nên thường được sử dụng trong các ngôi làng, chùa cổ.
Hai bên cột trụ của Tam quan thượng đề hai câu thơ: “Bảy đóa sen vàng nâng gót ngọc/ Ba ngàn thế giới đón Như Lai”. Câu thơ này đã đánh dấu một sự kiện đặc biệt trong lịch sử Phật giáo, đó là Đức Phật đản sinh, Ngài đã bước đi bảy bước, mỗi bước đều có hoa sen nở dưới chân. Đến bước thứ 7, một tay chỉ trời, một tay chỉ đất, Ngài nói rằng: “Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn”nghĩa là trên dưới vòm trời này, Ngài là bậc tôn quý nhất.
Miếu sơn thần
Miếu sơn thần nằm tách biệt bên trái chùa chính. Đây là đơn nguyên vừa đóng vai trò thờ thần núi vừa là nhà thờ Đức Ông có diện tích khiêm tốn với kiến trúc gỗ lợp ngói truyền thống. Hầu hết các ngôi chùa Phật giáo truyền thống đều có một ban riêng thờ Ngài.
Theo sách Phật Giáo ghi chép lại, Đức Chúa Ông là một doanh nhân giàu có ở Ấn Độ cổ đại và rất mộ đạo. Ngài đã bỏ ra một lượng tài sản vô cùng lớn để dát vàng kín mặt vườn của Thái Tử Kỳ Đà nước Vệ Xá, cúng dường cho Đức Phật cũng như tăng đoàn tới thuyết pháp. Và Ngài được xem là thí chủ lớn nhất, rộng rãi nhất từ trước đến nay.
Chùa Hạ
Chùa chính bao gồm ba nếp nhà song song thành chữ “Tam” trên một nền cùng độ cao, mỗi nếp có 2 tầng 8 mái kiểu chồng diêm, gồm chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Tường chủ yếu xây bằng gạch Bát Tràng để trần phô màu đỏ mộc mạc và trổ những cửa sổ tròn quét vôi trắng, biểu thị triết lý “sắc sắc không không” của nhà Phật.
Ở trên bàn thờ của chùa Hạ thờ tượng Phật Bà Thiên Thủ Thiên Nhãn, hai bên là tượng tiên Đồng Ngọc Nữ.
Những bộ tượng này mang phong cách thời Tây Sơn thần mặc giáp tay cầm khí giới điển hình cho các pho tượng Hộ pháp ở nước ta những pho tượng thể hiện sự quyền uy trừ gian diệt ác bảo vệ người dân.
Chùa Trung
Đi qua chùa Hạ, bạn sẽ tới chùa Trung. Khác với nhiều ngôi chùa ở Việt Nam, tòa giữa (chùa Trung) của chùa Tây Phương hẹp nhưng cao hơn tòa Thượng và Hạ. Mỗi nếp có 2 tầng mái kiểu chồng diêm, các cột gỗ đều kê trên đá tảng xanh trong khắc hình cánh sen. Nơi đây thờ phật Tuyết Sơn – tượng minh họa thời kỳ khổ hạnh của đức Phật Thích-ca mâu-ni trước khi thành Phật.
Chùa Thượng
Tại chính điện chùa Thượng, ở ba ngôi ở trên cùng cao nhất, mỗi vị ở đây đại diện cho một nghìn vị phật trong kiếp quá khứ, hiện tại và tương lai. Các vị La Hán bố trí theo hàng dọc với ý nghĩa về những sự kiện trong cuộc đời các đức phật. Hàng thứ hai bài trí bộ “Thập điện diêm vương” – những vị làm lẽ công bằng cõi luân hồi, với ý nghĩa giáo dục con người tích đức, hành thiện.
18 vị la hán được thờ ở chùa với 18 dáng vẻ khác nhau và được coi là đỉnh cao của nghệ thuật điêu khắc và tạo hình của Việt Nam. Không chỉ những chi tiết trên trang phục, nếp nhăn hay khắc khổ trên cơ thể đều được thể hiện sống động và cuốn hút mà thậm chí cả đau đớn suy nghĩ của con người trần thế cũng được khắc họa rõ nét trên những bức tượng này.
Nhà tổ – nhà mẫu – nhà khách
Nhà Tổ – Nhà Mẫu kết cấu theo kiểu chữ “Nhị”(=). Phía bên ngoài thờ Tổ, phía bên trong thờ Mẫu.
Nhà khách là hạng mục nằm ở sườn phải của chùa chính. Hạng mục này mới được phục dựng lại trong những năm gần đây, nhưng vẫn tuân thủ kiến trúc truyền thống và đồng điệu với phong cách kiến trúc của toàn bộ các đơn nguyên Tây Phương.
Lưu ý khi tham quan chùa Tây Phương
- Ngôi cổ tự này là một chốn vô cùng thiêng liêng, vì vậy khi tới đây, để thể hiện lòng thành kính, tôn trọng đối với Đức Phật, bạn không nên mặc đồ quá ngắn, quá phản cảm…
- Nếu có thể, bạn nên chuẩn bị sẵn đồ cúng lễ từ trước. Còn nếu mua đồ lễ lại các sạp hàng tại chùa thì cần tham khảo giá cả thật kỹ trước khi mua hàng hay sử dụng bất kì một dịch vụ nào (ăn uống, gửi xe, mua lễ dâng Phật,…)
- Du khách đi chùa Tây Phương Hà Nội vào mùa lễ hội, nên chú ý bảo quản hành lý và đồ đạc cá nhân thật cẩn thận. Những vật dụng có giá trị như tiền bạc, giấy tờ, điện thoại,… nên cất kỹ để tránh việc tạo cơ hội cho kẻ gian lợi dụng.
- Nếu thấy ai ngỏ ý muốn xách đồ cho bạn, tuyệt đối đừng đồng ý vì sau đó, họ sẽ đòi bạn “phí” giữ đồ hộ. Bạn mà không đồng ý trả “phí”, có thể bạn sẽ chẳng bao giờ nhận lại được đồ của mình.
Trên đây là một số thông tin về Chùa Tây Phương mà Đồ thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn về một ngôi chùa nằm ở Hà Nội. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về ngôi chùa Hàng này nhé!
Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các ngôi chùa khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tớ nhé.