Linh Tiên Tự – Chùa Bằng: Nét đẹp 400 năm tại Hà Nội

chùa bằng

Chùa Bằng (có tên chữ là Linh Tiên tự), thuộc sơn môn pháp phái Lâm Tế, tọa lạc tại số 63 phố Bằng Liệt, phường Hoàng Liệt, quận Hoàng Mai, Hà Nội (giáp khu đô thị mới Linh Đàm).

Lịch sử hình thành và phát triển

Chùa được xây dựng trước năm 1617, kết cấu hình chữ công, với diện tích lên đến 14.000m2. Dưới thời Hậu Lê, chùa Bằng là ngôi chùa làng thuộc xã Bình Liệt, huyện Thanh Trì, phủ Thường Tín, trấn Sơn Nam.

Về niên đại xây dựng từ thuở ban đầu do thất lạc tài liệu sử sách nên chưa xác định được chính xác. Nhưng căn cứ theo tấm bia “Tu tạo Linh Tiên tự bi ký” được khắc vào tháng 11 năm Đinh Tỵ niên hiệu Hoằng Định thứ 18 (năm 1617) được lưu giữ tại chùa thì chùa được trùng tu do Thiền sư Huệ Nguyên – Nguyễn Văn Tông chủ trì.

Và theo tấm bia “Linh Tiên tự ký” thì chùa được trùng tu lớn nhất vào năm 1654 do Thiền sư Tự Huệ Quảng (thế danh Lê Khả Đắc, người xã Ba Lăng, huyện Thượng Phúc) chủ trì với sự phát bồ đề tâm dâng cúng tiền của gia đình ông bà Ngô Vĩnh Đăng tự Chân Sinh, Lưu Thị Lý hiệu Diệu Minh xây tòa tiền đường, thiêu hương, thượng điện và các công trình khác.

Chùa Bằng cũng như nhiều chùa khác, do chịu ảnh hưởng của chiến tranh và những thăng trầm lịch sử nên thế hệ trụ trì cũng gián đoạn, chuyển đổi sơn môn:

Giai đoạn trước năm 1954, chùa trải qua nhiều vị sư trụ trì như: Sư tổ Tự Huệ Nguyên (thế danh Nguyễn Văn Tông), trụ trì trước sau năm 1617;

  Sư tổ Tự Huệ Quảng (thế danh Lê Khả Đắc) quê xã Ba Lăng, huyện Thượng Phúc – Hà Đông, trụ trì trước sau năm 1654; Sư tổ Tự Như Liên hiệu Bất Trược Thủy, trụ trì trước sau năm 1723,

Tổ đã có công khai trường giảng đạo, tiếp độ đệ tử, đào tạo tăng tài cho Phật pháp đương thời, trong số các đệ tử có thiền sư Tự Như Tâm quê thôn Trung, xã Thanh Liệt, trụ trì Báo Ân đại thiền tự xứ Kinh Bắc, được phong là Trí Giác hòa thượng. Năm 1740, Giáp Thân niên hiệu Chính Hoà thứ 25 (Lê Hy Tông), Ngài xây dựng chùa Nội (Quang Ân) và dựng cột trụ “Thiên Đài” ghi công đức các thí chủ. Cột hiện nay vẫn còn trước sân chùa;

chùa bằng

Thiền sư Thích Tính Tuyên, trụ trì chùa Linh Tiên trước sau năm 1734 kiêm trụ trì chùa Quang Ân; rồi Thiền sư Tăng phó Thích Hải Dương; Thiền sư Tăng phó Thích Tịch Nhu; Thiền sư Thích Chiếu Sửu – Tự Trí Điển, họ Lưu quê thôn Đông Trạch, xã Đông Ba, huyện Thượng Phúc, Hà Đông. Ngài là thế hệ thứ 4 dòng Thiền Tam Huyền – Nhân Mục chùa Sùng Phúc do Tổ Tính Tuyền

Trạm Công khai sáng; Thiền sư Thích Phổ Tế – Tự Trí Tâm, họ Hoàng, quê xã Dưỡng Hiền, huyện Thượng Phúc, Hà Đông; Thiền sư Thích Phổ Quang, người bản xã (Bằng Liệt), Thiền sư Thích Phổ Siêu, người có công đúc đại hồng chung năm 1837, Thiền sư Tự Thanh Bình, hiệu Thận Độc, Ngài trụ trì 2 chùa Linh Tiên – thôn Bằng Liệt và Sùng An – thôn Tựu Liệt, viên tịch ngày 9 tháng 7 năm Bính Dần (1926), đệ tử xây tháp thờ vọng tại bản tự,

xá lợi an trí tại chùa Sùng An. Hoà thượng Thích Tường Vân (thế danh Nguyễn Văn Mai) sinh năm Bính Ngọ (1906), viên tịch ngày 2 tháng 2 năm Kỷ Mùi (1979), an táng tại chùa Huỳnh Cung, xã Tam Hiệp, huyện Thanh Trì – Hà Nội. Ngài có công trùng tu chính điện năm 1954, dưới sự chứng kiến và chủ lễ của ông Nguyễn Văn Thanh – Tỉnh trưởng tỉnh Hà Đông, sau đó về trụ trì chùa Quang Minh phố Ngô Sĩ Liên, quận Đống Đa – Hà Nội cho đến ngày viên tịch.

Đến giai đoạn từ năm 1954 đến 1996, chùa không có sư trụ trì, nhưng nhân dân, tín đồ, Phật tử địa phương vẫn bảo quản trông nom chùa chu đáo.

Từ năm 1996 cho đến nay thì Hòa thượng Thích Bảo Nghiêm (trụ trì chùa Lý Triều Quốc Sư – Hà Nội) kiêm trụ trì chùa Bằng.

Các công trình kiến trúc chính

Trải qua thời gian từ khi hình thành, tồn tại và phát triển, những năm tháng chiến tranh tàn phá ác liệt nhưng chùa Linh Tiên vẫn còn lưu giữ được một số công trình kiến trúc nghệ thuật chính như tòa Tam bảo, nhà Tổ, nhà Mẫu, khu tháp mộ. Đó là những minh chứng cho sự ra đời và tồn tại của ngôi chùa này.

Tòa thượng điện là công trình chính của toàn bộ cảnh quan chùa nơi đây gọi là thượng điện hay chính điện thờ Tam bảo.

Trong quá trình trùng tu đã phát hiện cách xây dựng độc đáo của tiền nhân với hệ thống “móng treo” rất đặc biệt, bên trong lòng móng có hàng trăm viên gạch “vồ” của thế kỷ XV, XVI.

Tuy năm 1945 có trùng tu lại sau khi bị chiến tranh, nhưng đó chỉ thay phần mái gỗ lợp ngói thành bê tông còn hệ thống tường móng giữ nguyên của đợt đại trùng tu theo bia “Linh Tiên tự ký” (tạo năm 1654). Hiện nay, rất ít công trình kiến trúc đình đền chùa miếu có hệ thống “móng treo” như ở chùa Bằng.

Nhà thờ Tổ được tạo dựng bằng gỗ lim. Ngôi nhà này cũng giữ được vẻ độc đáo còn lại ở Việt Nam với hệ thống 6 hàng cột.

Vườn chùa hiện còn 6 ngôi tháp thờ chư vị tổ sư và giác linh, trong đó có những ngôi tháp cổ: Linh Quang thờ Thiền sư Tính Tuyên; Từ Quang thờ thiền sư Chiếu Sửu – Trí Điển.

Đặc biệt ở chùa Bằng phải kể đến công trình Bảo tháp Báo Ân độc đáo, công trình này mới được xây dựng năm 2004 nhân kỷ niệm 350 năm ngày đại trùng tu chùa (1654 – 2004), được xây dựng với diện tích là 1.500m2 sân chùa. Tháp đã được xếp kỷ lục Tháp Phật giáo cao nhất Việt Nam năm 2007 và được xác lập kỷ lục lần 2 năm 2010 là Tháp có nhiều tượng Phật bằng đồng nhất Việt Nam.

Bảo tháp được xây dựng trên nguyên tắc kiến trúc truyền thống Phật giáo Việt Nam. Sự hiện hữu của Bảo tháp Báo Ân là sự kế thừa ý nghĩa của Tháp Báo Thiên thời Lý (Một trong “An Nam Tứ Đại khí”) do Thiền sư Không Lộ đúc, bao gồm: chuông Quy Điền, tháp Báo Thiên, tượng Quỳnh Lâm (tượng Di Lặc) và vạc Phổ Minh. Rất tiếc hiện nay những bảo vật ấy không còn tìm thấy.

Nét đặc thù của Bảo tháp Báo Ân là được thiết trí theo hình Tháp Bát giác (theo giáo lý Bát Chính Đạo). Cửa tháp mở ra theo 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Về kiến trúc Bảo tháp Báo Ân: Phần móng với độ sâu 45m, được dựng bởi 9 trụ đỡ, mỗi trụ đường kính 1m; phần thân tháp cao 45m, tượng trưng cho 45 năm thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (theo quan niệm của Nam truyền); phần ngọn tháp được làm bằng đồng nặng 1.300kg, độ cao 9,66m.

Từ mặt tháp lên chót tháp cao 54,66m.Tháp gồm 13 tầng theo phẩm Phú chúc, kinh Niết Bàn (thuộc kinh điển Đại thừa), 8 cột trụ ngoài của tháp đều được làm bằng đá, chạm theo hình Long Phượng, tượng trưng cho khí âm dương hòa hợp (Âm dương hòa hợp vạn vật sinh thành).

Bên trong tháp tôn trí 104 tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng ngồi trên bệ đá, nhằm thể hiện trọn vẹn tinh thần bình đẳng trong giáo pháp của Đức Thế Tôn

Đó cũng là phương hướng giáo hóa chính yếu trong cuộc đời hoằng pháp của Ngài. Ý nghĩa này không ngoài mục đích để cho các bộ phái Phật giáo từ hàng xuất gia cho đến tại gia, nhất nhất đều có thể đến trước ngôi Bảo tháp chiêm bái, đảnh lễ. Những pho tượng Phật trong tháp được kiến tạo theo 3 dạng kết cấu, tỉ lệ với các tầng của tháp, từ chiều cao đến trọng lượng, gồm:

40 tượng Phật: Cao 1,55m; nặng 300kg.

32 tượng Phật: Cao 1,15m; nặng 200kg.

32 tượng Phật: Cao 0,67m; nặng 100kg.

Chung quanh tháp tôn trí 4 tượng Thiên Vương (Đông phương: Trì Quốc Thiên Vương; Nam phương: Tăng Trưởng Thiên Vương; Tây phương: Quảng Mục Thiên Vương; Bắc phương: Đa Văn Thiên Vương) bằng đá, cao 3,50m.

Trên 8 cửa ở tầng 1 của tháp Báo Ân có treo 8 pho sách (cuốn thư) được đúc bằng đồng, mỗi cuốn nặng 250 kg, có chạm nổi các thi phẩm – thiền kệ của các bậc cao tăng Việt Nam đương đại, mang đến cho Bảo tháp thêm sự mềm mại, Đạo vị hòa quyện với Thi vị, vừa trang nghiêm trầm mặc, vừa lãng mạn bay bổng. Có thể nói, Bảo tháp Báo Ân là sự kết hợp hài hòa giữa Phật giáo Nam truyền và Bắc truyền.

Bên cạnh tháp là hình ảnh 18 pho tượng La hán ngồi thẳng hàng, rất sinh động và rõ nét. Mỗi tượng đều thể hiện đầy đủ sắc thái, cảm xúc khác nhau về những nỗi đau, sự khổ ải đè nặng lên kiếp sống hàng ngày của chúng sinh đang trầm luân trong luân hồi sinh tử.

Đặc biệt, những pho tượng này được kiến trúc theo dáng mẫu của các vị La hán chùa Tây Phương, ngôi chùa cổ ở Việt Nam – Hà Nội và đó cũng chính là những vị Đại Đệ tử Phật qua các đời, theo sự truyền đăng của Thiền Tông.

Tiếp đó là tới Quan Âm viên, được tôn trí bởi 45 pho tượng khác nhau: chính thân, 32 hóa thân theo phẩm Phổ Môn trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa và 12 đại nguyện Đức Quán Thế Âm Bồ tát.

Tất cả nhằm nói lên tinh thần cứu khổ, ban vui của Bồ tát Quán Thế Âm cho tất cả chúng sinh trong thế giới này. Những pho tượng này giúp cho chúng ta được thưởng thức trọn vẹn tinh hoa văn hóa của nghệ thuật tạc tượng Việt Nam hiện nay.

chùa bằng

Vị trí địa lý

Tọa lạc rất gần con sông Tô Lịch thơ mộng, đây chắc chắn sẽ là địa điểm du lịch mà bạn không thể bỏ lỡ. Nếu bạn muốn đến Linh Tiên Tự – Chùa Bằng để cúng dường, tham quan, thì hãy đến trực tiếp tại địa chỉ: Số 63, Phố Bằng Liệt, Phường Hoàng Liệt, Quận Hoàng Mai, Thành phố Hà Nội.

Đường đến Chùa Bằng từ Trung tâm Thủ đô Hà Nội

Bạn có thể di chuyển qua đường Giải Phóng với quãng đường là 9,4 km và mất khoảng 48 phút.

Bạn có thể di chuyển từ đường Giải Phóng qua đường Nguyễn Hữu Thọ với tổng chiều dài đường đi là 9,9 km và mất khoảng 50 phút.

Bạn có thể đến Chùa Bằng khi đi qua phố Trịnh Đình Cửu với quãng đường dài 9,3 km và tốn khoảng 53 phút.

Những điểm đặc biệt tại Linh Tiên Tự Chùa Bằng

Kiến trúc độc đáo của Chùa Bằng

Linh Tiên Tự – Chùa Bằng thuộc sơn môn pháp phái Lâm Tế, được xây dựng với lối kiến trúc hình chữ Công (工). Có diện tích rộng lớn lên đến 14.500m2 nên chùa có nhiều nét kiến trúc độc đáo từ các điện thờ đến các tấm đá đều có câu chuyện lịch sử phía sau.

Thiết kế của Linh Tiên Tự – Chùa Bằng theo hình chữ Công

Tòa thượng điện là công trình chính của chùa và trong quá trình trùng tu đã phát hiện cách xây dựng độc đáo của tiền nhân với hệ thống “móng treo” rất đặc biệt, bên trong lòng móng có hàng trăm viên gạch “vồ” của thế kỷ 15 – 16.

Nhà thờ Tổ được tạo dựng bằng gỗ lim. Ngôi nhà này vẫn còn giữ được vẻ độc đáo của truyền thống văn hóa ở Việt Nam với hệ thống 6 hàng cột lim.

Tấm bia “Linh Tiên tự ký” được khắc ngày 13/12/1654 do Pháp sư Tự Ngọc Bảo, người Huyện Tiên Du – Bắc Ninh biên soạn với nội dung ghi công đức của ông, bà Ngô Vĩnh Đăng, Lưu Thị Lý phát tâm làm chùa.

Tấm đá dùng ngâm gạo làm oản cúng Phật. Trên đó được khắc chữ “Tâm” to, dưới viết các bài kệ dạy đệ tử tỏ ngộ tâm tông của Phật tổ do Thiền sư Bất Trược Thủy (Tự Như Liên) biên soạn.

Hai tấm bia đá tạo dựng năm Long Đức thứ 3 (1734) ghi lại công đức của Thiền sư Tự Tính Tuyên (Trụ trì Chùa Bằng Liệt và Chùa Quang Ân) đã phát tâm xây dựng cầu đá Quang Bình để nhân dân thuận tiện qua lại. Hiện nay cầu này có tên là cầu Quang.

Đại hồng chung (Chuông chiêu mộ) được đúc tháng 6 năm 1837. Đây là quả chuông to nhất được nhân dân trong vùng ca ngợi qua câu: “Chuông Bằng, trống Lủ, mõ Đình Công, cồng làng Sét”.

Tấm bia khắc ngày 13/12/1954 ghi lại đợt trùng tu lớn nhất của Chùa Bằng cho xây dựng tòa chính điện do Tỉnh trưởng Hà Đông – Nguyễn Văn Thanh chủ lễ đặt viên đá đầu tiên.

Vườn chùa hiện còn 6 ngôi tháp thờ các vị tổ sư và các sư giác linh, trong đó có những ngôi tháp cổ: Linh Quang thờ Thiền Sư Tính Tuyên, Tháp Từ Quang thờ Thiền sư Chiếu Sửu – Trí Điển.

Di tích tại Chùa Bằng

Cách Trung tâm Thủ đô Hà Nội 3 km về phía Nam, xuôi theo dòng sông Tô Lịch chúng ta sẽ tới Linh Tiên Tự – Chùa Bằng, ngôi chùa cổ được xây dựng từ thời Hậu Lê có niên đại trên 400 năm.

Không chỉ mang giá trị lịch sử với nhiều cổ vật đậm dấu thời gian, Chùa Bằng còn sở hữu Tháp Báo Ân – công trình Phật giáo tiêu biểu với hai kỷ lục Việt Nam.

Năm 2002, dưới sự đồng ý của Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm, công trình bảo tháp được khởi công xây dựng. Sự hiện hữu của Tháp Báo Ân là kế thừa ý nghĩa của Tháp Báo Thiên thời nhà Lý. Bảo tháp xây dựng theo hình bát giác và cửa tháp mở ra theo 4 phương: Đông, Tây, Nam, Bắc.

Về kiến trúc Tháp Báo Ân:

Phần móng: độ sâu 45m bởi 9 trụ đỡ, mỗi trụ đường kính 1m.
Phần thân: tháp cao 45m, tượng trưng cho 45 năm thuyết pháp của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Phần ngọn: đúc bằng đồng nặng 1.300kg và cao 9,66m.
Từ mặt nền lên đến đỉnh tháp cao 54,66m. Bao gồm 13 tầng theo phẩm Phú chúc, kinh Niết bàn. Tám cột trụ ngoài của tháp đều được làm bằng đá. Với tổng diện tích khu vực tháp lên đến 1.500m2.

Bên trong tháp tôn trí 104 tượng Đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng ngồi trên bệ đá. Những pho tượng Phật này được kiến tạo theo 3 dạng kết cấu, tỉ lệ với các tầng của tháp, từ chiều cao đến trọng lượng, gồm:

40 tượng Phật: Cao 1,55m và nặng 300kg.
32 tượng Phật: Cao 1,15m và nặng 200kg.
32 tượng Phật: Cao 0,67m và nặng 100kg.
Xung quanh Tháp Báo Ân tôn thờ 4 tượng Thiên Vương đều làm bằng đá và cao 3,5m theo 4 phương Đông, Nam, Tây, Bắc:

chùa bằng

Đông phương: Trì Quốc Thiên Vương.
Nam phương: Tăng Trưởng Thiên Vương.
Tây phương: Quảng Mục Thiên Vương.
Bắc phương: Đa Văn Thiên Vương.
Mỗi pho tượng trong Tháp Báo Ân đều được đúc tại chùa. Bức tượng lớn nhất, nặng nhất được đặt ở tầng 1 có trọng lượng tới 700kg. Với những pho tượng trên tầng 13 thì nặng tầm 60kg – 70kg.

Tầng 1 của tháp được ốp bằng đá Thanh Hóa cao 7m và có 8 cổng ra vào. Trên các cửa ra vào có treo 8 pho sách, mỗi pho sách nặng 250kg. Tất cả được điêu khắc mô phỏng theo các thi phẩm – thiền kệ các bậc cao tăng Việt Nam đương đại.

Các khu vực xung quanh tháp tôn trí 18 pho tượng A La Hán. Những pho tượng này được kiến trúc theo mẫu các vị La Hán chùa Tây Phương.

Tháp Báo Ân đã được xác lập hai kỷ lục Việt Nam, cụ thể là:

Năm 2007, tháp Phật giáo cao nhất Việt Nam.
Năm 2010, tháp có nhiều tượng Phật bằng đồng nhất Việt Nam.

Sau khi hoàn thành công trình Tháp Báo Ân, ngài Thích Bảo Nghiêm cho tiếp tục xây dựng Vườn Quán Thế Âm, tại đây tôn trí 45 pho tượng, cao từ 3m trở lên. Nơi đây tượng trưng cho các hóa thân khác nhau nhằm nói lên tinh thần cứu khổ cứu nạn, từ bi hỷ xả, ban vui của Bồ Tát Quán Thế Âm cho tất cả chúng sinh trong thế giới này.

Vườn Phật Quán Thế Âm mang vẻ đẹp non nước hữu tình. Với hồ nước nhỏ, xung quanh tràn ngập sắc xanh hoa cỏ tươi tốt. Bước vào nơi đây khiến tâm trở nên nhẹ nhàng, thư thái, bình an.

Các đời Trụ trì tại Chùa Bằng

Do có nhiều sự ảnh hưởng từ bên ngoài và có sự luân chuyển nơi tu hành nên tạm sắp xếp các đời Trụ trì từ xa đến gần tại Chùa Bằng như sau:

Đầu thế kỷ 17 – Giữa thế kỷ 17: Sư tổ Tự Huệ Nguyên (Thế danh Nguyễn Văn Tông).

Giữa thế kỷ 17 – Đầu thế kỷ 18: Sư tổ Tự Huệ Quảng (Thế danh Lê Khả Đắc).

Đầu thế kỷ 18 – Giữa thế kỷ 18: Sư tổ Tự Như Liên (Hiệu Bất Trược Thuỷ). Tổ đã có công khai trường giảng đạo, tiếp độ đệ tử, đào tạo tăng tài cho Phật pháp đương thời.

Giữa thế kỷ 18: Thiền sư Thiền tông Nam Sơn đạo mạch – Tự Tính Tuyên (Trụ trì Chùa Linh Tiên kiêm Trụ trì Chùa Quang Ân).

Giữa thế kỷ 18 – Đầu thế kỷ 20 lần lượt là các trụ trì:

Thiền sư Tăng phó Tự Hải Dương (Hiệu Chân Giác).
Thiền sư Tăng phó Tự Tịch Thoan (Hiệu Nhiễm Nhiễm).
Thiền sư Tự Chiếu Sửu – Trí Điển.
Thiền sư Thích Phổ Tế (Tự là Trí Tâm).
Thiền sư Tự Phổ Quang.
Thiền sư Tự Phổ Siêu.
Thiền sư Tự Thanh Bình (Hiệu là Thận Độc).
Đầu thế kỷ 20 – Giữa thế kỷ 20: Hòa thượng Thích Tường Vân. Ngài có công trùng tu chính điện năm 1954, dưới sự chứng kiến và chủ lễ của ông Nguyễn Văn Thanh – Tỉnh trưởng Hà Đông.

Giữa thế kỷ 20 – Cuối thế kỷ 20: Chùa Bằng không có sư trụ trì, phật tử tự trông coi.

Từ năm 1996 đến nay: Thành hội Phật giáo Hà Nội bổ nhiệm Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm là trụ trì Chùa Bằng.

Những hoạt động khác tại Chùa Bằng

Ngoài là nơi thờ phụng các vị Phật tổ, các vị A La Hán, các vị Thánh thần thì tại Linh Tiên Tự – Chùa Bằng còn diễn ra các khóa tu cho thanh thiếu niên nhằm lan truyền sức mạnh phật giáo, khai sáng tâm trí cho những người trẻ.

Được biết chương trình các khóa tu ở đây đã diễn ra trong vòng 10 năm. Cứ đến mỗi mùa hè thì Chùa Bằng nhận được rất nhiều đơn đăng ký xin được tham gia. Ngoài sự giảng giải về Phật pháp thì tại nơi đây còn được tổ chức rất nhiều hoạt động vui chơi ngoài trời và các hành động xây dựng lối sống lành mạnh cho các Phật tử tham gia tu tại chùa.

Các lưu ý cho khách đến viếng chùa

Thời gian mở cửa Linh Tiên Tự – Chùa Bằng tuy không giới hạn nhưng các bạn tránh đến quá sớm hay quá muộn để không làm ảnh hưởng giờ giấc sinh hoạt của các quý thầy.

Khi bước vào chùa bạn nên đặt giày dép bên ngoài cửa chánh điện, không mang vào tránh làm bẩn sàn.

Hãy diện trang phục lịch sự khi đi vào chùa, không mặc quần áo quá ngắn hay gợi cảm. Đối với các Phật tử thì cần mặc áo lễ trước khi vào chùa.

Không gây mất trật tự, tránh ảnh hưởng đến người xung quanh.

Không thể hiện tình cảm thái quá trong chùa.

Không được tự tiện lấy hay cầm nhầm bất kỳ vật chất nào của chùa, bạn nên kiểm tra kỹ đồ dùng của bản thân trước khi ra về.

Nghiêm cấm các hành vi trộm cắp, móc túi tại đây.

Linh Tiên Tự – Chùa Bằng không chỉ là một trong các cổ tự tại Hà Nội mà nơi đây còn lưu giữ những nét truyền thống văn hóa của Việt Nam. Đây cũng là nhân chứng sống đã chứng kiến lịch sử tại mảnh đất thủ đô. Với không gian rộng rãi, thoáng mát, cùng nhiều cảnh đẹp thì nơi này chính là một địa điểm mà mọi người nên đến.

Trên đây là một số thông tin về Chùa BằngĐồ Thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về Chùa Bằng cũng như tiền thân của Phật  ở nơi này nhé!

Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các thông tin khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tôi nhé!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *