Ma Ha Ca Điếp là ai? Tên Đại Ca Điếp nguồn gốc từ đâu? Tại sao Ngài Ca Điếp lại được nhiều người biết tới? Đó là một trong rất nhiều câu hỏi mà quý độc giả đã gửi về cho Đồ Thờ Hưng Vũ.
Vậy hôm nay hãy cùng chúng tôi tìm hiểu toàn bộ thông tin về tôn giả Ma Ha Ca Điếp qua nội dung sau nhé!
Ma Ha Ca Điếp là ai?
Ma Ha Ca Diếp Tôn giả là Sơ Tổ, người nhận tâm truyền từ đức Phật Thích Ca. Ngài hiện vẫn còn sống và đang nhập định nơi núi Kê Túc, chờ đức Từ Thị xuất thế.
Tôn giả là người nước Ma kiệt đà, thuộc dòng Bà la môn, mang thân hình sắc vàng. Khi gặp Phật, tôn giả xin xuất gia, mong độ các chúng sanh. Ngài được đức Phật gọi là đệ tử bậc nhất trong đại chúng.
Một hôm, tại hội Linh Sơn, Phật cầm bông hoa Bát la sắc vàng nhìn đại chúng. Lúc ấy, mọi người đều lặng yên, duy một mình tôn giả thì nét mặt rạng lên mỉm cười. Phật bảo:
“Ta có chánh pháp nhãn tạng, tâm nhiệm mầu niết bàn, thực tướng vô tướng, pháp môn vi diệu, chẳng lập văn tự, đặc biệt truyền ngoài giáo lý, giao phó cho Ma ha Ca Diếp.”
Phật còn đưa áo Tăng già lê vàng cho Tôn giả mà dặn rằng :”Hãy chuyển lại cho đức Phật Từ Thị (Danh hiệu của Bồ Tát Di Lặc khi thành Phật).”Tôn giả đáp lễ nói: “Xin vâng lời Phật dạy.”
Về sau, tôn giả truyền pháp cho Ngài A Nan rồi mang tấm áo Tăng già lê đi vào núi Kê Túc nhập định, chờ ngày đức Phật Từ thị hạ sanh.
Tên gọi Ma Ha Ca Điếp tôn giả
Phật Ca Diếp tên đầy đủ là Ma ha Ca Diếp (“Ma ha” nghĩa là “lớn”), vì vậy còn được gọi là Đại Ca Diếp. Theo lịch sử Phật giáo, ngài Ma Ha Ca Diếp sinh ra trong gia đình phú hào Ni Câu Lự Đà Kiệt Ba thôn Sa La Đà, nước Ma Kiệt Đà
Vốn tên là Tất Bát La Da Na vì thân mẫu ngài đi chơi quanh gốc cây Tất Bát La thì hạ sinh ngài nên lấy tên cây đặt cho con.
Ngài là vị Phật thứ ba trong số năm vị Phật của hiền kiếp, và cũng là vị Phật thứ sáu trong số sáu vị Phật trước Phật Thích Ca Mâu Ni, được đề cập trong Đại Tạng Kinh Pali. Trong các kinh sách Phật giáo bằng tiếng Phạn, vị Phật này được gọi là Kāśyapa.
Cuộc đời Ma Ha Ca Điếp
Theo tư liệu, Ma-ha-ca-diếp sinh năm 616 TCN. Ông gia nhập Phật giáo năm 30 tuổi – lúc đó Tất-đạt-đa Cồ-đàm đã đắc đạo được 3 năm (38 tuổi, năm 586 TCN). Chỉ 8 ngày sau, ông đạt quả A la hán.
Ông kế tục Tất đạt đa Cồ đàm quản lý tăng chúng cho đến năm 525 TCN thì truyền lại cho A-nan. Lúc đó ông đã rất già (có lẽ khoảng 90 – 100 tuổi). Ông mất năm 496 TCN, thọ 120 tuổi, chôn cất tại Guru Pada giri.
Xuất thân trong một gia đình Bà La Môn tại xứ Ma-Kiệt-Đà, ngài Đại Ca Diếp có phước tướng đầy đủ, tư chất thông minh; không ham thích các lạc thú ở đời, khác hẳn những người bạn cùng trang lứa. Đại Ca Diếp thường tỏ ra nhàm chán, thích xa đám đông và ở riêng một mình.
Để cha mẹ bằng lòng, Ngài đã cưới vợ tên là Bạt Đà, một cô gái rất xinh đẹp con nhà giàu có trong vùng. Sau lễ cưới, hai người mới nhận ra đều cùng chung chí nguyện, thích phạm hạnh, ghét ngũ dục.
Khi cha mẹ mất, Ngài Đại Ca Diếp tạm biệt Bạt Đà lên đường tìm thầy học đạo và hứa sau khi tìm được bậc minh sư sẽ về đón Bạt Đà để cùng tu.
Sau nhiều năm lang thang khắp chốn, khi đủ duyên lành được gặp và xuất gia trong giáo Pháp bất tử của Đức Thế Tôn, Đại Ca Diếp chân thật thực hành các Pháp tu khổ hạnh, luôn tỉnh giác, bền chí chiến đấu để vượt qua chính mình đã giúp Ngài sớm chứng đạt đạo
Với phẩm hạnh cao quý, Tôn giả đã được các Tỳ kheo đương thời tôn xưng là đầu đà đệ nhất khi thực hành 13 Pháp có năng lực tịnh hóa tâm hồn: “, phải khất thực để sống, khất thực theo thứ lớp, ngồi ăn một lần, ăn bằng bình bát
Không để dành đồ ăn, sống ở trong rừng, ở dưới gốc cây, ở ngoài trời, ở nghĩa địa, nghỉ ở đâu cũng được, không nằm ngủ”.
Khi đã được an trú trong niềm vui giải thoát, Ngài đã đón người vợ của mình năm xưa được bước vào ngôi nhà Như Lai. Điều đặc biệt của Tôn giả khi trì bát khất thực là Ngài chỉ đến khất thực trước nhà người nghèo để họ gieo trồng những hạt giống tốt lành trong ruộng phước điền tối thượng.
Ý nghĩa và sức ảnh hưởng Ma Ha Ca Điếp
Mặc dù tôn giả Ma Ha Ca Diếp đã nhập Niết Bàn, nhưng ảnh hưởng nếp sống đạo đức, phạm hạnh của tôn giả vẫn còn tồn tại mãi với thời gian…
Suốt cả cuộc đời, tôn giả Ma Ha Ca Diếp trở thành một con người gương mẫu trong giáo đoàn, phẩm hạnh có tầm ảnh hưởng rất rộng. Đức Phật cũng vị nể xem tôn giả như bạn, có lần Phật đã nhường nửa tòa ngồi giảng pháp cho tôn giả.
Gương của Ma Ha Ca Diếp chính là, người có tư cách đạo đức bao giờ cũng được kính nể, ngược lại không tư cách đạo đức dù giàu mạnh đến đâu, cuối cùng cũng bị cuộc đời đào thải.
Sự tích Ma Ha Ca Điếp giữ hạnh “Đầu đà”
Năm 30 tuồi, Ma Ha Ca Diếp vào rừng tìm đạo thì cũng là lúc Đức Phật Thích Ca thành đạo dưới cội Bồ Đề. Nghe tiếng Đức Phật, Ma Ha Ca Diếp tìm đến thành Vương xá, ngày ngày theo Thánh chúng đến nghe pháp.
Đức Phật nhìn xuống thấy và biết Ma Ha Ca Diếp là người có thể kế thừa đạo nghiệp của Như Lai.
Tại hội Linh Sơn, khi đức Phật đưa lên một cành hoa, Ma Ha Ca Diếp mỉm cười, Phật biết chánh pháp đã có người tâm đắc kế thừa sau này.
Một hôm, sau khi mãn buổi thuyết pháp Phật đi đường tắt đón Ma Ha Ca Diếp ở một ngã đường, Ma Ha Ca Diếp chính thức bái yết Phật, theo Phật trở lại Tinh Xá Trúc Lâm, được Đức Phật đem pháp Tứ Đế, Thập nhị nhân duyên mà khai thị cho.
Vốn thích tu hạnh “Đầu đà” sau khi gặp Phật, Ma Ha Ca Diếp tiếp tục thực hành pháp tu phạm hạnh. Hạnh “đầu đà” có năng lực tịnh hóa tâm hồn, nhưng khi tu theo hạnh này cần giữ đủ 10 điều:
Chọn ở nơi hoang vắng; sinh hoạt bằng phép trì bình; thường ở tại một nơi; ngày ăn một bữa; khất thực không phân biệt giàu nghèo; tài sản gồm có 3 y (áo), một bình bát; tư duy dưới gốc cây; thường ngồi giữa đồng trống; mặc áo phấn tảo; sống tại các bãi tha ma.
Trong 10 điều kiện trên, Ma Ha Ca Diếp tuân giữ trọn vẹn chỉ có 9 điều, riêng khất thực thì chỉ đến khất thực trước nhà người nghèo.
“Người giàu đã thừa phước đức, ta không cần phải mang phước đến cho họ, còn người nghèo vì thiếu phước đức ta cần đem phước điền cho họ gieo trồng”- Ma Ha Ca Diếp lý giải.
Hạnh “đầu đà” được Ma Ha Ca Diếp giữ cho đến hơi thở cuối cùng, không ai lay chuyển được, cho nên được tôn xưng là bậc “Đầu đà đệ nhất”.
Sự tích Đại Ca Điếp tiếp độ thân sơ
Sau khi Đức Phật cho di mẫu của mình xuất gia hiệu là Kiều Đàm Di, trở thành vị nữ đầu tiên trong giáo đoàn của Phật, Ma Ha Ca Diếp nhờ một tỳ kheo ni đi đón nàng về ni viện.
Vì sắc đẹp kiều diễm, Diệu Hiền không tránh khỏi sự xì xầm nơi chốn đông người, đành bỏ không ra ngoài khất thực, không tiếp xúc với đại chúng, tránh chỗ đông đảo.
Thế là hàng ngày Ma Ha Ca Diếp chia nửa phần cơm, nhờ người mang đến cho Diệu Hiền.
Những người tò mò có tính thị phi lại sinh tâm tật đố, cho là giữa hai người chắc còn tình ý.
Để tránh tiếng, Ma Ha Ca Diếp không chia phần cơm cho Diệu Hiền nữa; còn tỳ kheo ni Diệu Hiền ngày đêm không ăn ngủ, tịnh tọa sám hối tấn tu đạo nghiệp, chứng được Túc mạng thông, được Đức Phật khen ngợi.
Một hôm vào thành Vương Xá khất thực, Ma Ha Ca Diếp thấy một bà lão ăn mày đau ốm nằm rên rỉ bên vệ đường, nên ân cần thăm hỏi.
Bà lão đáp:
“Ngài có gì cho tôi không? Sao tôi thấy Ngài cũng có vẻ nghèo và mang bát đi xin ăn, tôi chẳng có gì cho Ngài cả. Thế Ngài có phép gì giúp tôi hết bệnh và hết nghèo đói chăng?”.
“Tôi là một Tỳ kheo đang theo học đạo lý với Phật Thích Ca và đang tu khổ hạnh nên cũng đi xin như bà, nhưng lại đi bán giàu mua nghèo, bà hãy bán nghèo cho tôi để tạo nhiều phước báu giàu sang phú quý”- Ma Ha Ca Diếp trả lời.
“Nghèo thì lấy gì để bán? Đã ba ngày qua tôi không có chút gì để bỏ vào bụng, sáng sớm hôm nay có người đi đổ nước cơm, tôi hứng được một tí đỉnh, nhưng nước đã có mùi chưa dám uống sợ tháo dạ”.
“Thế bà đem nước đó bố thí cho tôi chút đỉnh, gọi là gieo trồng phước đức, hy vọng tương lai gặp may mắn, trở nên giàu có”. Nghe giảng giải, tâm bà đầy hỷ lạc quên cả sự ô uế của thân mình, đem mẻ nước cơm dâng cúng cho Ca Diếp.
Ngài hoan hỷ tiếp nhận, chúc phúc cho bà rồi lên đường hành hóa.
Ma Ha Ca Điếp thừa kế Đức Phật
Thấy Ma Ha Ca Diếp đạo cao đức trọng, Phật và giáo đoàn đều vị nể.
Trọn giữ hạnh đầu đà, lúc nào Ma Ha Ca Diếp cũng ở trong rừng già, kinh hành hoặc tọa thiền dưới gốc cây, quán xương trắng ở bãi tha ma chẳng quản nắng mưa, sương gió… mãi đến lúc tuổi già râu tóc bạc phơ, thân thể gầy guộc vẫn không bao giờ chểnh mảng.
Thực hành phạm hạnh đầu đà là trực tiếp củng cố giáo đoàn, gián tiếp lợi lạc chúng sinh, củng cố tăng đoàn là điều kiện thừa kế Đức Phật. Phật dạy rằng: “Này các Tỳ kheo! Đại Ca Diếp luôn luôn lo ngại cho tiền đồ chính pháp.
Thiên ma ngoại đạo hay thế lực cường quyền không thể phá hoại chính pháp, nội tình lộn xộn, Tăng đoàn hủ hóa thiếu phạm hạnh là điều kiện chính làm cho chính pháp tiêu diệt, “Trùng trong sư tử ăn thịt sư tử.”
Vì thế nếu Tăng đoàn được củng cố, giới đức trang nghiêm, nội tình ổn định hòa hợp tất yếu chính pháp được trường tồn. Để củng cố Tăng đoàn, sinh hoạt phải nghiêm túc, giới luật phải được tôn trọng giữ gìn, giới luật còn thì đạo ta còn.
Người có thể chủ trì thừa kế chính pháp của ta phải là Ma Ha Ca Diếp”.
Ma Ha Ca Điếp kết tập kinh điển
Sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn 7 ngày, Ma Ha Ca Diếp liền triệu tập hội nghị kết tập kinh điển trong suốt 3 tháng. Đại chúng nhất trí đề cử Ma Ha Ca Diếp làm chủ tọa.
Sau cuộc kết tập kinh điển, khoảng hai hoặc ba mươi năm sau, cảm thấy cơ thể đã già yếu, mệt mỏi vì đã trên trăm tuổi, Ma Ha Ca Diếp quyết định nhập Niết Bàn.
Ma Ha Ca Diếp tìm đến nơi A Nan đang du hóa để phú chúc pháp tạng, yêu cầu A Nan tiếp nối sứ mạng thừa kế truyền bá chính pháp, rồi đến 8 tháp thờ Xá Lợi phật để lễ lạy cúng dường. Sau đó Ma Ha Ca Diếp mang theo y bát của Phật đến núi Kê Túc, ngồi nhập định và nhập Niết Bàn.
Trên đây là một số thông tin về Ma Ha Ca Diếp mà Đồ Thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn Ma Ha Ca Diếp Tôn giả là Sơ Tổ, người nhận tâm truyền từ đức Phật Thích Ca. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về Ma Ha Ca Diếp ở nơi này nhé!
Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các vị Phật khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tôi nhé!