Đình Tây Đằng | Kiến Trúc Nghệ Thuật Điêu Khắc Độc Đáo

Đình Tây Đằng ở thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, cách thành Hà Nội khoảng 50 km về phía Tây. Ngôi đình này chứa đựng những giá trị kiến trúc chạm khắc đặc sắc, độc đáo và được coi như một bảo tàng nghệ thuật dân gian của thế kỷ XVI. Đình Tây Đằng được Chính phủ Việt Nam xếp hạng là Di tích Quốc gia đặc biệt ngày 9 tháng 12 năm 2013.

Giới thiệu khái quát về di tích “Quốc Gia đặc biệt Đình Tây Đằng”

Di tích Đình Tây Đằng thuộc thuộc thôn Đông, thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, thành phố Hà Nội. Di tích đình Tây Đằng được Bộ VH,TT&DL xếp hạng di tích Quốc gia đặc biệt theo quyết định số 2383/QĐ – UBND ngày 29/03/2013.

Lược sử

Đình Tây Đằng toạ lạc tại Thị trấn Tây Đằng, huyện Ba Vì, TP Hà Nội, ven đường quốc lộ QL32. Trong đình có thờ ba Đức thành hoàng: Thánh Gióng, Thần Nông và Tản Viên Sơn thánh, một trong những vị thần “Tứ bất tử” ở Việt Nam.

Ngôi đình này được xây dựng vào đầu thế kỷ 16 dưới thời nhà Mạc năm Đại Chính nhị niên (1531), sau này đã qua nhiều lần trùng tu. Hiện nay du khách vẫn có thể tận tay chạm vào và tận mắt nhìn sát một số cột gỗ bị hỏng và điêu khắc cũ.

Để tôn vinh và bảo vệ những giá trị tuyệt vời của di tích này về các mặt lịch sử, văn hoá và nghệ thuật dân tộc, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 2383/QĐ-TTg ngày 09-12-2013, xếp hạng đình Tây Đằng là Di tích Quốc gia Đặc biệt.

Đình Tây Đằng – Một di sản kiến trúc văn hóa còn mãi với thời gian

Là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, Đình Tây Đằng đã ngót 500 năm tuổi, được xây dựng vào thời nhà Mạc năm Đại Chính nhị niên (1531). Ngôi đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ Nhất Phúc Thần, cùng đức Phù Đổng Thiên Vương và Thần Nông

Toàn bộ khu đình nằm trên một khuôn viên rộng lớn, thoáng đẹp, hướng Nam mé Tây trông về đền Đức Thánh Tản trên núi Ba Vì. Đi qua cổng chính ta bắt gặp một hồ nước lớn, nơi giao hòa giữa trời cha đất mẹ dâng đầy linh khí.

1.Nhân vật thờ phụng:

Đình Tây Đằng thờ Tam vị Tản Viên Sơn Thánh, là vị thần đứng đầu hàng Tứ bất tử trong thần điện Việt, là anh hùng văn hóa, anh hùng dân tộc, anh hùng trị thủy được nhân dân tôn là Nam Thiên Thánh Tổ, được các triều vua sắc phong là Thượng đẳng tối linh thần.

Đình Tây Đằng

2. Quá trình xây dựng:

Căn cứ vào kết cấu kiến trúc, các họa tiết trang trí, đề tài chạm khắc hiện tồn tại đình Tây Đằng, so sánh với các ngôi đình cùng thời tại Ba Vì như đình Thụy Phiêu, đình Thanh Lũng và các kết quả đánh giá trên có thể kết luận đình Tây Đằng được khởi dựng vào thế kỷ XVI – thời Mạc (1527 – 1592). Theo các nhà khoa học đánh giá.

Đình Tây Đằng là một bảo tàng sống về nghệ thuật chạm khắc và trang trí trên kiến trúc với những đề tài phong phú phản ánh chân thực đời sống của nhân dân ta.

 * Những lần trùng tu sửa chữa:

– Sau thế kỷ XVI đình đã được tu sửa lần thứ nhất.

– Năm 1860 (Canh Thân), đình được dựng thêm 2 nhà tả hữu mạc. Tiếp sau đó dựng Nghi môn “Tứ trụ”.

– Năm 1979 đình Tây Đằng đã được Bộ Văn hóa và Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đầu tư tu bổ, tôn tạo. Đơn vị thực hiện là Trung tâm thiết kế và tu bổ di tích Trung ương – nay là Viện Bảo tồn di tích.

– Năm 2002 – 2004 tổng thể các hạng mục kiến trúc đình Tây Đằng được Bộ Văn hóa – Thông tin (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao Và Du lịch) đầu tư tu bổ, tôn tạo.

Đơn vị tư vấn thiết kế là Viện Bảo tồn di tích. Đơn vị thực hiện là Liên danh Công ty cổ phần xây dựng công trình văn hóa và Công ty Mỹ thuật Trung ương thực hiện. Bao gồm: Tu bổ, tôn tạo tòa Đại đình, tu bổ, tôn tạo Tả – Hữu vu, Nghi môn, Giếng cổ, Sân vườn, Hồ nước, Bãi đỗ xe, Nhà bảo vệ, Hệ thống thoát nước, chiếu sáng…

3. Kiến trúc:

Đình Tây Đằng, một di tích tiêu biểu vào bậc nhất trong các ngôi đình cổ nổi danh toàn quốc với câu ca “Cầu Nam, chùa Bắc, đình Đoài”. Đình nằm trên một khu đất đẹp, cao ráo giữa trung tâm của làng Tây Đằng, tựa lưng phía sau là khu cư trú của thôn Đông, phía trước hướng về núi Ba Vì (Tản Viên) hùng vĩ.

Đình Tây Đằng bao gồm các hạng mục chính: Cổng đình, hồ bán nguyệt, cổng nghi môn, tả hữu mạc, tòa đại đình và giếng đình. Các hạng mục kiến trúc này được hòa quyện với nhau trong khuôn viên di tích đã có tường bao xung quanh, với các nếp nhà cao thấp, mái đao cong cổ kính xen nhau tạo nên.

Đình Tây Đằng với kết cấu mặt bằng theo hình chữ nhất, phía trước nhìn thẳng ra núi Tản Viên. Đình quay hướng Nam. Đình Tây Đằng có độ lớn vừa phải, mang hình chữ nhất, ba gian hai chái lớn, lợp bằng loại ngói dạng ngói mũi hài.

Qua khảo sát tổng thể khung vì kiến trúc đình Tây Đằng được làm bằng loại gỗ mít. Chất liệu này có lẽ ảnh hưởng từ chùa, để như muốn nhắc tới một miền đất tâm linh thánh thiện, trong sáng, giác ngộ…

Về kết cấu mặt bằng, tòa đại đình được kết cấu mặt bằng với 6 hàng chân cột gỗ, tổng số 48 cột lớn nhỏ đỡ khung vì kiến trúc. Tương ứng với các gian là 4 bộ vì chính đỡ mái được thiết kế thống nhất theo kiểu “giá chiêng”.  Hậu cung là Gian thờ gác lửng sau hai cột cái, ở gian chính giữa.

4.Nghệ thuật điêu khắc, trang trí trên kiến trúc:

Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc hết sức tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người làm ra nó. Nét đặc biệt có một không hai của ngôi đình này là không một chi tiết nào giống nhau từ họa tiết kẻ liền bẩy bốn góc, kẻ liền bẩy vì chính, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng, các chồng rường, bát đỡ, câu đầu, chếnh xối, ván nong… đều có hoa văn đẹp, mỗi hoa văn một kiểu.

Các họa tiết hoa văn mang tính đặc sắc của các vùng miền văn hóa khác nhau như: họa tiết người nông dân trồng cấy lúa của vùng đồng bằng Bắc bộ, quăng chài bắt cá của vùng sông nước miền duyên hải, đua thuyền của Nam bộ, chơi đàn tính của đồng bào Tày Nùng, voi chầu của vùng Tây Nguyên, ngựa hý của vùng cao, đấu vật kéo co trong ngày lễ hội, cá vượt vũ môn hóa rồng, bộ tứ linh, trời mây hoa lá rất phong phú

Và hàng chục các nữ thần cỡi mây bay lượn trên bầu trời, các nữ thần được bố trí trên các đầu duôi khắp bốn phía sát mái ngôi đình. Hình tượng các nữ thần đầu quấn khăn và “Bà Banh” mang ý nghĩa phồn thực đậm phong cách của các nghệ nhân xứ Chămpa.

Nghệ thuật điêu khắc, trang trí kiến trúc được thể hiện trên toàn bộ kết cấu gỗ của ngôi đình, hầu như không có mảng trống nào trên gỗ là không có chạm khắc trang trí. Các mảng chạm khắc trang trí được người nghệ nhân dân gian xưa thể hiện trên các bộ phận kiến trúc như: đầu dư, cốn, xà nách, bẩy, đấu, ván nong, ván lá đề, con giường vì nóc…

Với kỹ thuật chạm lộng, chạm bong kênh, chạm nổi, chạm thủng đạt đến đỉnh cao của một hình thức thao diễn, tạo lên những tác phẩm điêu khắc tuyệt tác, dù những tác phẩm này đứng riêng biệt hay hòa nhập trong một tổng thể kiến trúc. Các đề tài được tập trung vào ít nhất ba loại hình cơ bản sau: linh vật, hình tượng con người, biểu tượng tự nhiên và cây cỏ được “vũ trụ” hóa. Về các linh vật: Phổ biến nhất là rồng rồi lân, hươu, phượng, voi, ngựa…5. Lễ hội truyền thống Đình Tây Đằng

Hàng năm UBND thị trấn Tây Đằng phối hợp với các cơ sở thôn tổ chức lễ hội truyền thống từ ngày mùng 10 đến ngày 14 tháng giêng âm lịch. Ngoài ra, 05 năm tổ chức hội lớn một lần…Lễ hội tại đây mang đậm nghi lễ cầu cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, nhân khang,

Đình Tây Đằng – Một di sản kiến trúc văn hóa còn mãi với thời gian

Là một trong những ngôi đình cổ nhất Việt Nam, Đình Tây Đằng đã ngót 500 năm tuổi, được xây dựng vào thời nhà Mạc năm Đại Chính nhị niên (1531). Ngôi đình thờ Đức Thánh Tản Viên Đệ Nhất Phúc Thần. Toàn bộ khu đình nằm trên một khuôn viên rộng lớn, thoáng đẹp, hướng Nam mé Tây trông về đền Đức Thánh Tản trên núi Ba Vì.

Đi qua cổng chính ta bắt gặp một hồ nước lớn, nơi giao hòa giữa trời cha đất mẹ dâng đầy linh khí. Tiếp đến là nghi môn, gồm bốn cột đồng trụ, hai cột thấp bên trên có hai nghê chầu, hai cột cao, bên trên mỗi đầu cột có bốn chim phượng uốn lượn vút lên như một bông hoa dành dành, thể hiện thế nghiêm thiêng của ngôi đình.

Hai phía bên phải và bên trái là tả vu và hữu vũ. Hạng mục công trình này nhằm làm những công việc chuẩn bị cho việc khánh tiết. Nhà tả vu và hữu vu đã bị đổ nát từ lâu, mãi đến khi tiến hành trùng tu ngôi đình thì mới được dựng lại. Đầu hồi phía phải của ngôi đình là một giếng cổ, nguồn nước đá ong bốn mùa trong xanh.

Giếng này trước đây nằm ngoài hàng rào của khuôn viên đình, nay mới được đưa vào trong, làm cho ngôi đình càng thêm linh diệu hơn. Sau nghi môn là một sân rộng, nơi tổ chức lễ hội vào dịp xuân về hoặc những ngày cúng tế.

Hai bên sân có tả mạc, hữu mạc dẫn vào đại đình. Trước đây, thềm đại đình chỉ cao khoảng 40 cm đủ một bước chân, sau khi trùng tu, thềm đã được nâng thành bậc tam cấp cao 75cm. Sàn đình rộng 360m2, được bố cục kiểu 3 gian với sáu hàng cột: Hai cột cái, hai cột quân và hai cột con, đó cũng là nét đặc trưng của những ngôi đình cổ.

Tất cả các cột đều theo lối “thượng thu hạ thách” kiểu dáng bông đòng đòng, “ngồi” trên chân tảng đá ong. Tất cả các cột quân và cột con đều có xu hướng choãi ra, tạo thế mở rộng vùng chân đế và hạ thấp trọng tâm của ngôi đình nhằm tăng độ ổn định, bền vững cho công trình. Đỡ thượng lương là giá chiêng chồng rường kiểu “chồng nhị”.

Gian chính giữa đình là bàn thờ Đức Thánh có cửa võng, y môn, lọng che, hai giàn bát bửu và đôi hạc chầu. Gian thờ quanh năm đóng cửa, trừ những ngày lễ hội, nhưng do đông khách thăm viếng nên gian thờ lúc nào cũng nghi ngút khói hương, không khí thật trang nghiêm! Các gian hai bên còn lại được bố trí sạp ngồi của các quan viên trong những ngày lễ hội hay khi việc làng.

Kết cấu được giữ nguyên theo kiểu nhà sàn của người Việt cổ vùng sơn cước. Khác biệt của đình Tây Đằng so với các ngôi đình còn lại là không có ván thưng xung quanh, nhờ đó công trình trở nên thông thoáng hơn và bền vững với thời gian.

Do đình thấp nên người Việt cổ đã chọn kết cấu rất sáng tạo, mặc dù không có quá giang: Liên kết cột cái với cột cái là câu đầu, cột cái với cột quân là xà nách.

Trên xà nách là chồng rường tạo độ dốc cho mái. Kẻ liền bẩy kéo dài từ cột quân vươn dài đến tàu mái. Hệ thống xà thượng, giằng đầu các cột cái, cột quân và cột con lại với nhau theo chiều dài của ngôi đình.

Cột con đỡ thẳng vào bẩy không qua ngàm, như vậy tạo cho bẩy không bị tiết diện giảm yếu khi liên kết với cột con làm cho công trình vững chắc hơn. Bí quyết để cấu trúc công trình được ổn định và bền vững là ở chỗ dùng mộng thắt đuôi én, ngoàm và nêm chắc đầu cột cũng như các cột quân, cột con choãi chân thang ra ngoài.

Do đặc tính của công trình như vậy nên ngay cả sau khi đã tháo toàn bộ sạp và các xà chân cột, công trình hoàn toàn không suy xuyển gì, vẫn vững vàng cùng năm tháng.

Một số họa tiết trang trí gỗ trên vỉ kèo Đình Tây Đằng. Đình Tây Đằng có tới 1.300 họa tiết được chạm khắc hết sức tinh xảo, đậm nét tài hoa của những con người làm ra nó.

Nét đặc biệt có một không hai của ngôi đình này là không một chi tiết nào giống nhau, từ họa tiết kẻ liền bẩy bốn góc, kẻ liền bẩy vì chính, đến các đầu dư đầu duôi, xà thượng, các chồng rường, bát đỡ, câu đầu, chếnh xối, ván nong… đều là những tác phẩm nghệ thuật kiệt tác.

Mỗi hoa văn một kiểu, các họa tiết hoa văn mang tính đặc sắc của các vùng miền văn hóa khác nhau như: Họa tiết người nông dân trồng cấy lúa của vùng đồng bằng Bắc Bộ.

Quăng chài bắt cá của vùng sông nước miền duyên hải, đua thuyền của Nam Bộ, chơi đàn tính của đồng bào Tày Nùng, voi chầu của vùng Tây Nguyên, ngựa hý của vùng cao, đấu vật kéo co trong ngày lễ hội mang màu sắc dân gian, cá vượt vũ môn hóa rồng, bộ tứ linh, trời mây hoa lá rất phong phú, có tới vài chục nữ thần cưỡi mây bay lượn trên bầu trời.

Các nữ thần được bố trí trên các đầu duôi khắp bốn phía sát mái đình, hình tượng các nữ thần đầu quấn khăn như những Apxara, cũng với hình tượng Bà Banh mang ý nghĩa phồn thực đậm phong cách của các nghệ nhân Chămpa.

Nghệ thuật Chămpa không chỉ thấy riêng ở đình Tây Đằng mà còn gặp ở đình Yên Bồ cũng gần đấy. Bà Banh đình Tây Đằng đặt ở con chồng nằm trên vị trí xà nách. Bà Banh ở đình Yên Bồ đặt trên giữa thượng cung, phía trước bài vị Thành Hoàng làng, gây một cảm giác tín lễ của phong tục Chăm, cùng với chiếc gậy hỉ.

Khi người nào hiếm con trai đều đến xin cầu tự ở đây. Ông Từ làm lễ cúng Thành Hoàng xong, người chồng cầm gậy hỉ chọc vào khe linh của Bà Banh ba lần. Sau chín tháng mười ngày là đạt được linh ứng. Thể thức tín ngưỡng này giống như Linga và Yoni nguyên bản vùng tháp Chàm và Tây Nguyên.

Đình Tây Đằng

Một số mẫu điêu khắc

Năm 2005, Bộ Văn hóa đã chủ trì việc trùng tu ngôi đình. Cột gỗ mít và thông đỏ được thay thế bằng gỗ lim, các chân tảng bằng đá ong được thay bằng đá xanh. Chỉ còn một vài cột cái, cột quân và một phần cột con là cố giữ lại.

Các họa tiết đặc biệt quý hiếm của đình Tây Đằng vẫn được bảo tồn nguyên giá trị vốn có. Việc trùng tu đã đảm bảo kĩ thuật tốt, đảm bảo độ vững chãi của ngôi đình.

Tiếc rằng, toàn bộ các cột được thay thế chỉ giữ lại được phần thượng thu hạ thách, còn dáng kiểu bông đòng đòng thì đã không còn, nên phần nào xa cách với di sản xưa. Bốn trụ đăng nghi môn cũng chỉ giữ lại được phần trụ lớn về phía bên phải của ngôi đình.

Đỉnh trụ bốn góc chạm bốn con phượng uốn lượn thành bông hoa dành dành. Dáng trụ thanh thoát và nghệ thuật rất tinh xảo tiếc rằng, trụ lớn phía đối diện và hai trụ con hai bên đắp còn thô lược. Hậu thế không thể bắt trước được Tiền nhân.

Đình Tây Đằng là một tác phẩm nghệ thuật kiến trúc văn hóa đặc biệt độc đáo, đầy ắp các di vật quý giá cả về văn hóa vật thể lẫn phi vật thể của ông cha.

Với những giá trị văn hóa, kiến trúc, chạm khắc, tài hoa, sống động, đình Tây Đằng như một bảo tàng nghệ thuật của thế kỷ 16 và là di sản văn hóa kiến trúc độc nhất vô nhị của tổ tiên ban tặng cho các thế hệ con cháu muôn đời sau. Hãy biết bảo tồn, tôn tạo và gìn giữ di sản đặc biệt quý giá này.

Trên đây là một số thông tin về Đình Tây Đằng Đồ Thờ Hưng Vũ muốn chia sẻ với các bạn về một ngôi đình nằm ở Huyện Ba Vì. Hy vọng nội dung trên sẽ giúp các bạn hiểu thêm về Đình Tây Đằng cũng như nghệ thuật điêu khắc kiến trúc ở nơi này nhé!

Nếu các bạn muốn tìm hiểu thêm về các ngôi Đình khác thì hãy đón đọc những bài viết mới của chúng tôi nhé!

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *