Chùa Thầy Quốc Oai Hà Nội | Lịch Sử – Kiến Trúc và Lễ Hội

Chùa Thầy tại Quốc Oai là một trong những địa danh du lịch nổi tiếng tại Hà Tây cũ và là Hà Nội hiện nay. Chùa Thầy chỉ cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 20km, chùa Thầy tọa lạc dưới chân núi Sài Sơn hay còn gọi là núi Thầy, núi Phật Tích, thuộc xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Tây cũ.

Trong không gian của núi, đồi hùng vĩ, chùa Thầy lại mang vẻ thanh bình, tĩnh mịch. Ngôi chùa này gắn liền với vị thiền sư Từ Đạo Hạnh, người có công lớn trong việc dạy học, chữa bệnh cho dân và sáng lập ra bộ môn múa rối nước.

Vậy thông tin lễ hội chùa Thầy diễn ra khi nào? Tới đây thì thăm những điểm nào? Cùng Đồ Thờ Hưng Vũ tìm hiểu qua nội dung sau nhé!

Giới thiệu chùa Thầy

Chùa Thầy là một nhóm những ngôi chùa ở chân núi Sài Sơn, huyện Quốc Oai, tỉnh Hà Tây cũ, nay là xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, Hà Nội, cách trung tâm Hà Nội khoảng 20 km về phía Tây nam, đi theo đường cao tốc Láng – Hòa Lạc.

Sài Sơn có tên Nôm là núi Thầy, nên chùa được gọi là chùa Thầy. Chùa được xây dựng từ thời nhà Lý. Đây từng là nơi tu hành của Thiền sư Từ Đạo Hạnh, lúc này núi Thầy còn gọi là núi Phật Tích.

Chùa Thầy đã được Nhà nước chính thức công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt kể từ năm 2015. Sau khi được công nhận là di tích Quốc gia đặc biệt, năm nào chùa Thầy cũng đón hàng vạn lượt du khách thập phương về thăm quan, lễ bái.

Đặc biệt là vào các ngày lễ hội truyền thống (mùng 7/3 âm lịch) hoặc dịp Tết Nguyên đán hàng năm, du khách về lễ bái, dâng hương càng đông hơn.

Chùa Thầy Quốc Oai

Chùa Thầy ở đâu?

Còn có tên gọi khác là chùa Cả, chùa Thầy cách trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 25km về phía Tây Nam.

Chùa được xây dựng vào thời Lý Nhân Tông (1072 – 1127) và là nơi lưu dấu tu hành của một vị cao tăng thời Lý – Thiền sư Từ Đạo Hạnh.

  • Địa chỉ: Chân núi Sài Sơn, xã Sài Sơn, huyện Quốc Oai, thành phố Hà Nội

Bản đồ tới chùa Thầy

Lịch sử chùa thầy

Cùng với chùa Tây Phương và Chùa Hương, Chùa Thầy là một trong những ngôi chùa nổi tiếng nhất Hà Nội. Nếu như Chùa Láng gắn liền với giai đoạn đầu của cuộc đời Từ Đạo Hạnh, thì chùa Thầy lại chứng kiến quãng đời sau cùng cho đến ngày thoát xác của vị sư thế hệ thứ 12 thuộc dòng Thiền Ti-ni-đa-lưu-chi này.

Ban đầu chùa Thầy chỉ là một am nhỏ gọi là Hương Hải am, nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh trụ trì. Vua Lý Nhân Tông đã cho xây dựng lại gồm hai cụm chùa: chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự 嵿山寺) trên núi và chùa Dưới, tức chùa Cả, tên chữ là Thiên Phúc Tự (天福寺).

Đầu thế kỷ 17, Dĩnh Quận Công cùng hoàng tộc chăm lo việc trùng tu, xây dựng điện Phật, điện Thánh; sau đó là nhà hậu, nhà bia, gác chuông. Theo thuyết phong thủy, chùa được xây dựng trên thế đất hình con rồng. Phía trước chùa, bên trái là ngọn Long Đẩu, lưng chùa và bên phải dựa vào núi Sài Sơn.

Chùa quay mặt về hướng Nam, trước chùa, nằm giữa Sài Sơn và Long Đẩu là một hồ rộng mang tên Long Chiểu hay Long Trì (ao Rồng). Sân chùa như hàm rồng ,thủy đình như viên ngọc rồng ngậm.Cây cầu Nguyệt Tiên Kiều và Nhật Tiên Kiều như hai chiếc râu rồng.

Chùa Thầy Quốc Oai

Kiến trúc chùa Thầy

Phần chính của chùa Thầy được xây dựng theo lối kiến trúc tiền Phật hậu Thánh, Thánh ở đây là Từ Đạo Hạnh một vị danh tăng nổi tiếng dưới thời Lý.

Chùa gồm ba tòa song song với nhau gọi là chùa Hạ, chùa Trung và chùa Thượng. Giữa chùa Hạ và chùa Trung có ống muống nối với nhau, tạo thành thế hạ công thượng nhất. Đặc biệt kiến trúc chùa chỉ có 36 lỗ đục các tấm gỗ được xếp chồng lên nhau cực kỳ vững chắc.

  • Chùa Hạ là nhà tiền tế, bày các tượng Đức Ông, Thánh hiền. Ống muống để tượng Bát bộ Kim Cương.
  • Chùa Trung bày bàn thờ Phật, hai bên có hai tượng Hộ pháp, tượng Thiên vương.
  • Chùa Thượng hay chùa trên tách biệt hẳn, ở vị trí cao nhất, biển đề Đại hùng Bảo điện, đồng thời là nhà thánh, để tượng Di Đà tam tôn,Thích Ca, tượng ba kiếp của thiền sư Từ Đạo Hạnh, ban thờ Lý thần Tông còn có 1 đôi Phượng Hoàng gỗ, 2 tượng Phỗng thế kỷ 18 đời vua Lê Ý Tông,

Xung quanh chùa có hai dãy hành lang phía sau có lầu chuông, lầu trống. tương truyền do bà Chúa Chè Tuyên Phi Đặng Thị Huệ xin với chúa Tĩnh Đô Vương Trịnh Sâm xây dựng khi về thăm chùa,

Phía trước chùa là một sân rộng nhìn ra hồ Long Chiểu, tạo thành hàm của rồng trước trồng hai cây gạo, nhưng hiện tại hai cây gạo đã chết, được thay bởi cây đa. Từ sân này có hai cầu là Nhật tiên kiều và Nguyệt tiên kiều nối sang hai bên, tạo thành hai râu rồng.

Hai cầu này do Phùng Khắc Khoan xây vào năm 1602. Cầu Nhật Tiên nối sang một hòn đảo nhỏ, trên đảo có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên nối vào đường lên núi.

Giữa ao Long Chiểu có thủy đình là viên ngọc giữa miệng rồng. Đây cũng là nơi diễn ra trò múa rối nước. Từ Đạo Hạnh được cho là ông tổ của hình thức biểu diễn dân gian này.

Chùa Thầy Quốc Oai

Kỹ thuật điêu khắc tượng tại chùa Thầy

Tại chùa Hạ có các pho tượng Đức Ông khá đẹp, và một bức bình phong lớn mô tả cảnh địa ngục.

Các pho Kim Cương đứng trong những tư thế võ mạnh mẽ, sống động. Tại chùa Trung có hai pho tượng Hộ pháp được cho là lớn nhất trong các ngôi chùa Việt Nam, cao gần 4m. Tượng Hộ pháp đắp bằng đất thó, giấy bản giã nhỏ trộn với mật, trứng,…, nên sau hơn ba trăm năm vẫn còn rất tốt.

Các pho tượng đẹp nhất của chùa Thầy tập trung tại chùa Trên.

Trên cao nhất là tượng Di Đà Tam tôn được tạc vào đời Mạc. Phật A Di Đà ngồi giữa dáng vẻ phúc hậu. Pho tượng Quán Thế Âm bên phải ngồi buông chân trái xuống, chân phải co lên, tay cầm một cây phất trần, dáng vẻ ung dung. Pho Đại Thế Chí ngồi xếp bằng, hai tay bắt ấn mật phùng. Ba pho tượng mỗi pho một vẻ không giống nhau, tạo thành một bộ tượng đẹp đặc biệt.

Dưới đó, chính giữa là tượng Thiền sư Từ Đạo Hạnh trong kiếp Phật. Tượng được tạc vào thế kỉ 19, khuôn mặt khắc khổ, nổi rõ mạch máu, ngồi xếp bằng tròn trên một bệ hoa sen còn lại từ đời Lý. Bệ hoa sen đặt trên một con sư tử cuộn tròn, dưới con sư tử là một bệ bát giác. Hiện nay tượng được đội mũ hoa sen và khoác áo vàng.

Toàn bộ ba pho Di Đà và tượng Từ Đạo Hạnh đặt trên một bệ đá hai tầng, được làm vào thời nhà Trần. Bệ đá chạm những cánh hoa sen, bốn mặt chạm hình rồng và hoa lá, bốn góc có hình thần điểu Garuda.

Bên phải là tượng Thiền sư ở kiếp Vua. Tương truyền Từ Đạo Hạnh sau khi đã hóa, đầu thai làm con trai của Sùng Hiền Hầu và trở thành nhà vua Lý Thần Tông.

Tượng Lý Thần Tông đầu đội mũ bình thiên, mình khoác long bào, ngồi trên ngai vàng. Bên trái có tượng Từ Đạo Hạnh trong kiếp Thánh, ngồi trong một khám gỗ chạm trổ cầu kì. Tượng này có cốt bằng tre, có thể cử động. Tương truyền xưa kia mỗi khi mở cửa khám thì tượng tự động nhỏm dậy chào.

Sau một vị quan triều Nguyễn nói rằng “Thánh thì không phải chào ai cả”, nên tháo hệ thống khớp nối, từ đó tượng ngồi yên. Pho tượng này thể hiện nghệ thuật làm rối nước của dân gian.

Trong chùa còn có tượng ông Từ Vinh và bà Tăng Thị Loan là cha mẹ Từ Đạo Hạnh và hai bạn đồng đạo thân thiết của Ngài là Thiền sư Minh Không và Thiền sư Giác Hải.

Trước tượng Từ Đạo Hạnh ở chính giữa có một bàn thờ gỗ chạm trổ rất đẹp. Xưa kia nền đất còn thấp, người thắp hương vịn vào bàn thờ tạo thành một chỗ hõm rất lớn. Trong chùa Thượng còn có hai cây cột làm bằng loại gỗ quý là gỗ Ngọc am.

Chùa Thầy Quốc Oai

Hệ thống sơ đồ các chùa trên núi

Qua cầu Nguyệt Tiên nối với con đường lên núi. Trên núi có chùa Cao, vốn là Hiển Thụy am, còn có tên là Đỉnh Sơn Tự, là nơi Thiền sư Từ Đạo Hạnh đến tu đầu tiên. Trên vách chùa còn khắc những bài thơ tức cảnh của Nguyễn Trực và Nguyễn Thượng Hiền. Tương truyền rằng động Phật Tích ở sau chùa là nơi Ngài Từ Đạo Hạnh thoát xác để đầu thai làm vua Lý Thần Tông, nên còn gọi là hang Thánh Hóa.

Phía trên chùa Cao, trên đỉnh núi có một mặt bằng gọi là chợ Trời với nhiều tảng đá hình bàn ghế, kệ bày hàng, ly rượu,… trong đó có một phiến đá nhẵn lì được gọi là bàn cờ tiên. Có lẽ nơi đây ngày xưa các bậc trích tiên vẫn ngồi chơi cờ, uống rượu, thưởng trăng và ngâm thơ.

Từ chùa Cao, đi vòng ra phía sau là hang Cắc Cớ, là nơi tình tự của trai gái ngày xưa trong những ngày hội hè, như ca dao đã ghi lại:

Gái chưa chồng trông hang Cắc Cớ,

Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy.

Đi ngược lên trên là đến đền Thượng. Gần đền Thượng có hang Bụt Mọc với nhiều tảng đá được thời gian bào mòn trông như tượng Phật. Tiếp đó là hang Bò với lối vào âm u. Cách một đoạn là đến hang Gió với những ngọn gió thổi thông thốc cả hai đầu.Dưới hang gió có một lối đi nhỏ là hang của Bác ngày xưa xuống để phòng ngự đánh giặc.

Ở chân núi phía Tây còn có chùa Bối Am, còn gọi là chùa Một Mái, chùa có tên như vậy là vì chùa chỉ có một mái ngói, mặt sau chùa dựa vào vách núi. Truyền thuyết ở khu vực chùa Bối Am, thuộc phạm vi căn cứ Đỗ Động Giang xưa cho biết: Trước kia có một toán quân của Lã Đường tự Lã Tá Công, một trong Thập nhị sứ quân, bị vây hãm trong hang núi và bị chết đói hết cả. Điều này chứng tỏ đã có một cuộc tấn công của sứ quân Lữ Đường tới lãnh địa sứ quân Đỗ Cảnh Thạc, chiếm đóng tại đây.

Như vậy, quanh núi Thầy, ngoài chùa Thầy còn có cả một cụm kiến trúc Phật giáo được xây dựng trong những khoảng thời gian khác nhau.

Trong một bài ký ghi trên vách núi, Chúa Trịnh Căn đã phác họa cảnh chùa Thầy “như viên ngọc nổi lên giữa đám sỏi đá, rạng vẻ xuân tươi khắp cả bốn mùa. Động trên hệt như cõi thanh hư, bên vách còn in mây ráng. Ao rồng thông sang bến siêu độ, cầu tiên Nhật Nguyệt đôi vầng. Hình tựa bình phong, sông như dải lụa”.

Sơ đồ chùa Thầy khi thăm quan

Hướng dẫn đường đi chùa Thầy Quốc Oai Hà Nội

Hướng dẫn di chuyển tới Chùa Thầy từ trung tâm thành phố Hà Nội như sau:

  • Di chuyển dọc theo tuyến đường Đại lộ Thăng Long (CT08) tới nút giao Sài Sơn thì rẽ ra khỏi cao tốc, đi về phía bên phải khoảng 3km nữa sẽ thấy các thông tin chỉ dẫn phân làn phương tiện vào nơi gửi xe.
  • Di chuyển theo đường gom Đại lộ Thăng Long (các bạn lưu ý rằng trên Đại lộ Thăng Long cấm xe máy nên đừng di chuyển vào đây nhé), từ ngã 4 Big C – Trần Duy Hưng đến điểm rẽ vào Chùa Thầy khoảng 15km.
  • Tuyến xe buýt: Từ trung tâm Hà Nội các bạn có thể bắt tuyến buýt CNG01 có lộ trình Bến xe Mỹ Đình – Bến xe Sơn Tây, xe buýt sẽ dừng ngay trước cổng vào Chùa Thầy, vô cùng tiện lợi.

Giá vé tham quan chùa Thầy

Giá vé thắng cảnh vào chùa là 10.000vnđ/vé, dịch vụ trông xe 10.000vnđ/xe máy và 30.000vnđ/ôtô

Chùa Thầy Quốc Oai

Lễ hội chùa thầy

Hội chùa Thầy diễn ra từ ngày mùng 5 đến ngày mùng 7 tháng ba Âm lịch hàng năm. Trong ngày hội, nhiều tăng ni từ các nơi khác trong vùng cùng về đây dự lễ trong những bộ cà-sa trang trọng, tay cầm gậy hoa, miệng tụng kinh trong tiếng mõ trầm đều.

Lễ cúng Phật và trai đàn – một diễn xướng có tính chất tôn giáo – được thực hiện có sự phối hợp của các nhạc cụ dân tộc.

Nhưng hội chùa Thầy không chỉ có những nghi thức tôn giáo. Ở đây còn có trò múa rối nước mang đậm sắc thái dân gian mà ngày nay có tiếng vang ở nhiều nước.

Trai thanh gái lịch gần xa tìm đến hội chùa Thầy còn để thỏa mãn tính mạo hiểm khi leo núi và khao khát bày tỏ tình yêu trong một khung cảnh thiên nhiên rộng mở:

Rủ nhau lên núi Sài Sơn

Ai làm đá ướt đường trơn hỡi mình?

Hỏi non, non những làm thinh

Phải rằng non đã vô tình với ai?

Nước non ví chẳng chiều đời

Mắt xanh đâu lẽ phụ người tình chung?

Yêu nhau ta dắt nhau cùng

Non bao nhiêu đá nặng lòng bấy nhiêu.

(Á Nam Trần Tuấn Khải)

Về văn hóa, Chùa thầy có truyền thống nghìn năm về văn hóa. Nơi đây đã sinh ra Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Phan Huy Ích, Phan Huy Chú làm sáng danh lịch sử nước nhà.

Chùa Thầy Quốc Oai

Các địa điểm du lịch – vãng cảnh tại Chùa Thầy

Sau đây Đồ Thờ Hưng Vũ sẽ giới thiệu tới các bạn địa điểm du lịch và vãng cảnh tại Chùa Thầy mà bạn không nên bỏ qua:

Hồ Long Trì

Hồ nước rộng nằm ngay trước mặt Chùa Thầy, hồ còn được gọi là Long Chiểu có nghĩa là ao rồng.

Chùa Thầy Quốc Oai

Thủy đình

Nằm ở giữa hồ Long Trì, 1 gian 2 dĩ, kiểu phương đình, chồng diêm hai tầng, 8 mái với các góc đao cong.

Thuỷ đình xây dựng khoảng thời Hậu Lê (1533 – 1788), chia thành 2 cấp: giữa ngập nước, hai bên cao trên mặt nước, là nơi để đồ diễn rối nước.

Chùa Thầy Quốc Oai

Cầu Nhật Tiên – Nguyệt Tiên

Kiến trúc kiểu “thượng gia hạ kiều”. Cầu Nhật Tiên nằm bên trái chùa đi ra đảo nơi có đền thờ Tam phủ. Cầu Nguyệt Tiên ở bên phải chùa nối với bờ hồ lên núi.

Tương truyền hai cây cầu này do Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528 – 1613) xây dựng vào khoảng những năm đầu thế kỷ XVII.

Chùa Thầy Quốc Oai

Đền Tam Phủ

Nằm trên một gò đất nổi giữa hồ, dài 7m, rộng 5m, gồm 3 gian 2 dĩ nhỏ. Đền được xây bằng đá ong đỏ sẫm, 4 lá mái, lợp ngói mũi hài, kết cấu tàu đao lá mái, kết cấu bộ khung vì theo kiểu chồng rường bảy hiên. Theo các nhà nghiên cứu, đền mới xuất hiện vào đầu thời Nguyễn.

Chùa Hạ (Tiền Đường)

Dài 20m, rộng 5m, cao 5,2m gồm 3 gian 2 chái, dựng trên nền cao khoảng 1m so với sân chùa. Kết cấu bộ vì có 4 hàng chân cột, bộ vì nóc giá chiêng – kẻ suốt, mái lợp ngói mũi hài, bốn đầu đao cong vươn lên.

Trang trí trên bộ mái có makara, lân, rồng. Hai đầu hồi làm kiểu vỉ ruồi, trổ thủng hình mặt trời, hoa cúc, vấn xoắn tròn xen lẫn với mây cụm hình đao mác.

Hệ thống cửa kiểu bức bàn. Ở ván nong, ván lá gió trang trí tia lửa, lá đề …

Nhà cầu

Có chức năng nối tiền đường với thượng điện, gồm 1 gian, có 2 mái chạy dọc, dài 4,1m, rộng 4,5m, kết cấu 2 bộ vì 4 hàng chân cột và 4 kẻ góc đỡ đầu mái. Bộ vì kèo kiểu kẻ chuyền giá chiêng với những trụ ngắn.

Ở 2 hàng lan can, vách ngăn gỗ trang trí chấn song con tiện, bên dưới chia 4 tầng, có nhiều họa tiết trang trí điển hình cho nghệ thuật điêu khắc gỗ thế kỷ XVII.

Chùa Trung (Thượng Điện)

Gồm 3 gian 2 chái, dài 20m, rộng 9,5m và cao 5,5m, nền cao hơn nền tiền đường 0,5m. Thượng điện có khám thờ bên trong. Kết cấu bộ vì kiểu chồng rường – giá chiêng và giá chiêng kẻ suốt.

Mái lợp ngói mũi hài, với kết cấu tàu đao – lá mái với các góc đầu đao uốn cong. Thượng điện có kết cấu khá thông thoáng nhờ vào hệ thống cửa bức bàn gỗ bao hai bên hồi và phía sau.

Chùa Thượng (Điện Thánh)

Cao hơn điện Phật 0,95m, gồm 1 gian 2 chái lớn, dài 14,7m, rộng 11,7m và cao 6m. Bộ khung gồm 4 cột cái, 16 cột quân. Trong 4 cột cái có 1 cột gỗ ngọc am và một cột gỗ chò vẩy có chu vi 1,8m. Vì nóc kiểu chồng rường con nhị – giá chiêng”.

Trang trí hoa văn bên trong điện Thánh rất ít. Bên ngoài, ở cả 3 mặt ván gỗ bưng được chạm trổ khá cầu kỳ các đề tài rồng, lân, phượng, hoa lá, vân mây và những đường cánh sen chạm lộng nhiều lớp.

Phía sau, từ cửa hậu xuống là hệ thống bậc đá (có đôi sấu đá đầu nghê, mình sóc mang đậm phong cách điêu khắc thời Trần).

Chợ Trời

Leo lên đỉnh núi, ta thấy một khoảnh đất bằng phẳng, xung quanh có nhiều mô đá trầu vào đó là “Chợ trời”. Ở đây:

Buổi sớm mưa tan, trưa nắng giãi

Ban chiều mây họp tối trăng chơi

Bày hàng hoa quả tư mùa đủ

Giãi thẻ giang sơn bốn mặt ngồi

Chùa Cao (Đỉnh Sơn Tự)

Nối với chùa Cả qua cầu Nguyệt Tiên, tọa ở lưng chừng núi, còn gọi là Am Hiển Thuỵ với hang Thánh hoá là nơi Từ Đạo Hạnh giải thi (trút xác) để đầu thai làm con của Sùng Hiền Hầu, sau trở thành vua Lý Thân Tông.

Chùa Cao có quy mô kiến trúc nhỏ với các công trình kiến trúc: gác chuông, chùa chính (tiền đường, thượng điện) và các công trình phụ trợ.

Gác Chuông

Xung quanh chùa có hai dãy hành lang dài nối gác chuông, gác trống thành một khung hình chữ nhật, tạo cho chùa một không gian thoáng bên trong nhưng lại kín đáo bên ngoài.

Quan Âm Đài

Đầu tượng đội mũ thiên quan, đính nhiều bông hoa tròn, đoá ở giữa có quầng sáng hình lá đề cân xứng. Mặt nhìn thẳng phía trước, soi rõ nội tâm. Đôi tay chắp trước ngực, bàn tay lồng úp vào nhau.

Ngoài cùng khoác cà sa chùng rộng, cổ áo lượn tròn, phủ cân xứng hai bên tay, xuống đùi rồi trùm mặt bệ. Đường diềm áo có điểm hoa văn hình hạt ngọc và những bông hoa trông tựa như tràng hạt.

Hang Thánh Hóa

Hang Thánh Hóa là một động nhỏ hẹp, lờ mờ vẻ huyền bí, nhìn kỹ vào vách hang ta thấy những vệt lõm ở vách đá, đó là vết đầu, vết chân và vết tay mà Thiền sư tì vào lúc trút xác.

Hang Cắc Cớ

Hang Cắc Cớ là hang động tự nhiên được ví như Sơn Đoòng thu nhỏ ngay gần Hà Nội. Hang động này vô cùng linh thiêng và huyền bí, không chỉ có cảnh quan đặc sắc mà còn ẩn chứa nhiều giá trị tâm linh bí ẩn.

Để khám phá hết hang Cắc Cớ, du khách sẽ phải leo qua một đoạn đường với những khối đá gập ghềnh, sắc nhọn, hang rất sâu và tối.

Tuy nhiên, khi chinh phục hết hang bạn sẽ cảm thấy hoàn toàn xứng đáng với những trải nghiệm cùng cảnh quan đặc sắc và vô cùng tuyệt diệu.

Đền Thượng (Đền Văn Xương)

Nằm ở bên phía kia sườn núi, bên trên chùa Bối Am, được xây dựng vào khoảng thế kỷ XVII – XVIII thờ Văn Xương Đế Quân, Tản Viên Sơn Thánh, Từ Đạo Hạnh.

Đền có 3 gian 2 chái, với bốn lá mái các góc đao cong, bộ khung vì gỗ bốn hàng chân, hệ cửa bức bàn. Xưa kia, các sĩ tử thời phong kiến thường đến đây ăn ngủ (ăn chay, cầu đảo) với mong muốn xin đỗ đạt và đây cũng từng là nơi hội họp của phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục.

Chùa Một Mái (Bối Am Tự)

Nằm dưới chân núi, có cửa sau để đi lên núi gồm Tiền đường và Thượng điện, gác Chuông và Nhà lưu niệm Bác Hồ (nguyên là nhà tổ chùa Bối Am). Tại đây, Bác Hồ đã ở và làm việc từ ngày 3 tháng 2 đến 2 tháng 3 năm 1947.

Chùa Long Đẩu

Nằm dưới chân Long Đẩu Sơn – núi hình rồng (tiền án của chùa Thầy) ngay bên hồ Long Trì. Chùa được khởi dựng vào cuối thế kỷ XI và được trùng tu lớn vào thời Trần, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1294).

Năm Chính Hoà thứ 21(1708), chúa Trịnh Cương cùng Cung Tần Ngọc Lãnh đã bỏ tiền vàng cúng tam bảo, xây thêm nhà Tổ, hành lang, hậu điện, tam quan.

Chùa Sài Khê (Hoa Phát Tự)

Tọa lạc dưới chân núi Hoa Sơn, cũng là ngôi chùa được khởi dựng khá sớm, đã qua nhiều lần trùng tu tôn tạo, đến thế kỷ XVII đã có quy mô và hệ thống tượng khá phong phú đầy đủ…

Hiện nay, Chùa có các hạng mục: tam quan, gác chuông, chùa chính, nhà Tổ/Mẫu. Chùa Sài Khê có 51 pho tượng tròn cùng toà Cửu Long, có nhiều pho đẹp như Đại Thế Chí Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát,…

Đền Quán Thánh

Nằm dưới chân ngọn Hổ Sơn, cách chùa Thầy khoảng 1km về hướng Đông Nam. Tương truyền, đây là nơi chôn cất tro cốt của Từ Đạo Hạnh, còn tinh cốt (xá lợi) được yểm vào tượng rồi đặt trong khám thờ. Quán được dựng từ thế kỷ XII, đến thế kỷ XV được xây dựng với quy mô như hiện nay.

Năm Khải Định thứ 10 (1925) quán được tu sửa lớn, năm 1996 đại tu. Kiến trúc Đền hình chữ “Nhất”, vì nóc kiểu chồng rường, tường xây đá ong cổ, mái lợp ngói mũi. Trang trí trên kiến trúc có các đề tài tứ linh, rồng mây và hoa lá vân xoắn cách điệu phong cách Lê Trung Hưng.

Một số lưu ý khi đến viếng thăm Chùa Thầy

Ăn mặc lịch sự, trang phục gọn gàng. Trong chuyến đi sẽ có nhiều đoạn đường leo núi khá trơn, các bạn chú ý đi các loại giầy thể thao có độ bám tốt hoặc nên mang theo một đôi dép tổ ong.

Các bạn nữ tránh sử dụng giày cao gót nhé.

Ngoài ra, khi tới đây bạn cũng cần lưu ý như:

  • Chùa là nơi linh thiêng, tôn nghiêm nên bạn nhớ ăn mặc trang nhã, nên mặc áo dài tay, quần hoặc váy dài qua gối.
  • Để tiết kiệm chi phí, bạn có thể mang theo đồ ăn và nước uống. Tuy nhiên, bên ngoài cổng chùa cũng có nhiều hàng quán để bạn lấp đầy cơn đói bụng.
  • Không để người dân sắp lễ bởi đôi lúc họ sẽ ép giá đắt hơn bình thường đấy.
  • Di chuyển tham quan khuôn viên chùa theo bản đồ ngôi chùa, không nên để người dân thuyết trình vì bạn sẽ phải mất khoảng 100.000 – 300.000 VNĐ tiền phí hướng dẫn.
  • Nếu muốn tham gia bất kỳ dịch vụ hay mua đồ lưu niệm, bạn hãy nhớ hỏi giá trước và thương lượng để tránh phải trả giá quá đắt nhé.

Mang theo một chút đồ ăn vặt, nước uống để sử dụng dọc đường.

Khi sử dụng các dịch vụ, nhớ hỏi kỹ trước vấn đề giá cả để tránh bị chặt chém (nhất là trong mùa lễ hội).

Chú ý thêm vấn đề sắp lễ, thuyết minh nếu có bất cứ ai đề nghị giúp bạn. Hãy hỏi thật kỹ về chi phí phải trả là bao nhiêu, tránh việc các bạn hiểu nhầm việc giúp đỡ là miễn phí nhưng cuối cùng lại phải trả tiền.

Trên đây là thông tin về chùa Thầy Quốc OaiĐồ Thờ Hưng Vũ đã tổng hợp. Hy vọng qua nội dung trên các bạn đã hiểu rõ về ngôi chùa có tiếng tại Hà Nội và biết được lễ hội Chùa Thầy diễn ra hàng năm.

Trả lời

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *